Dân tộc Xơ Đăng
Tên gọi khác
Xơ Đeng, Cà Dong, Tơ-dra, Hđang, Mơ-nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng, Con Lan.
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
97.000 người.
Cư trú
Cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Đặc điểm kinh tế
Người Xơ Đăng làm rẫy là chính. Nhóm Mơ-nâm làm ruộng nước nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát đất. Đồng bào chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ-dra có nghề rèn từ quặng sắt rất phát triển và nổi tiếng.
Tên gọi khác
Xơ Đeng, Cà Dong, Tơ-dra, Hđang, Mơ-nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng, Con Lan.
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
97.000 người.
Cư trú
Cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Đặc điểm kinh tế
Người Xơ Đăng làm rẫy là chính. Nhóm Mơ-nâm làm ruộng nước nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát đất. Đồng bào chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ-dra có nghề rèn từ quặng sắt rất phát triển và nổi tiếng.
Tổ
chức cộng đồng
Mỗi
làng Xơ Đăng có nhà rông, có bãi mộ chôn người chết... Nhà cửa của dân làng
quây quần bên nhau, mọi người gắn bó giúp đỡ nhau. Ông "già làng"
được trọng nể nhất, là người điều hành mọi sinh hoạt chung trong làng và đại
diện của dân làng.
Hôn
nhân gia đình
Tên của
người Xơ Đăng không có họ kèm theo, nhưng có từ chỉ định giới tính: nam là A,
nữ là Y (ví dụ như là A Nhong, Y Hên). Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng
theo phong tục (ngày nay ít người còn theo phong tục này), được tìm hiểu, yêu
nhau. Lễ cưới xin đơn giản. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng
gia đình mỗi bên ít năm, rất ít trường hợp ở hẳn một bên.
Văn
hóa
Trong
số các lễ cúng, lễ hội truyền thống của người Xơ Đăng, lễ đâm trâu được tổ chức
long trọng nhất, đông vui nhất. Người Xơ Đăng thích hát múa, tấu chiêng cồng,
chơi đàn, kể chuyện cổ. Đàn ông không chỉ có tinh thần thượng võ, mà còn tài
nghệ trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tạo nên những sản phẩm tiêu biểu,
đó là ngôi nhà rông và cây nêu trong lễ đâm trâu.
Mỗi
làng người Xơ Đăng đều có nhà rông, nóc và mái được tạo dáng như cánh buồm lớn
hoặc lưỡi rìu khổng lồ ngửa lên trời. Có hình chim chèo bẻo hay hình sừng thú
chót vót ở hai đầu đốc. Nhà rông được dân làng tạo dựng nên hoàn toàn bằng thảo
mộc có sẵn ở địa phương. Kỹ thuật xây dựng chỉ là lắp ghép và chằng buộc, không
hề dùng đến đinh sắt, dây thép...
Nhà
rông thực sự là công trình kiến trúc, một sản phẩm văn hóa, là trụ sở và câu
lạc bộ trong làng của đồng bào Xơ Đăng.
Trang
phục
Còn ở
trình độ phát triển chậm và đây cũng là nét chung của một số dân tộc khác trong
khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên. Không có cá tính chung và điển hình cho phong cách
kỹ thuật và mỹ thuật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét