Dân tộc Kinh
Tên
gọi khác
Việt
Nhóm
ngôn ngữ
Việt -
Mường
Dân
số
86.000.000
người .
Cư
trú
* Người
Kinh cư trú khắp tỉnh, nhưng đông nhất là các vùng đồng bằng và thành thị.
Đặc
điểm kinh tế
* Người
Kinh làm ruộng nước. Trong nghề trồng lúa nước, người Kinh có truyền thống đắp
đê, đào mương. Nghề làm vườn, trồng dâu nuôi tằm, nghề nuôi gia súc và gia cầm,
đánh cá sông và cá biển đều phát triển. Nghề gốm có từ rất sớm.
Người
Kinh có tập quán ăn trầu cau, hút thuốc lào, thuốc lá, uống nước chè, nước vối.
Ngoài cơm tẻ, cơm nếp, còn có cháo, xôi. Mắm tôm, trứng vịt lộn là món ăn độc
đáo của người Kinh.
Tổ
chức cộng đồng
* Làng
người Kinh thường trồng tre bao bọc xung quanh, nhiều nơi có cổng làng chắc
chắn. Mỗi làng có đình là nơi hội họp và thờ cúng chung.
Hôn
nhân gia đình
* Trong
gia đình người Kinh, người chồng (người cha) là chủ. Con cái lấy họ theo cha và
họ hàng phía cha là "họ nội", còn đằng mẹ là "họ ngoại'. Con
trai đầu có trách nhiệm tổ chức thờ phụng cha mẹ, ông bà đã khuất. Mỗi họ có
nhà thờ họ, có người trưởng họ quán xuyến việc chung.
Hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều nghi thức, nhà trai hỏi vợ và cưới vợ cho con. Người Kinh coi trọng sự trinh tiết, đức hạnh của các cô dâu, đồng thời chú ý đến gia thế xuất thân của họ.
Hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều nghi thức, nhà trai hỏi vợ và cưới vợ cho con. Người Kinh coi trọng sự trinh tiết, đức hạnh của các cô dâu, đồng thời chú ý đến gia thế xuất thân của họ.
Văn
hóa
* Vốn
văn học cổ của người Kinh khá lớn: có văn học miệng (truyện cổ, ca dao, tục
ngữ), có văn học viết bằng chữ (những áng thơ, văn, bộ sách, bài hịch). Nghệ
thuật phát triển sớm và đạt trình độ cao về nhiều mặt: ca hát, âm nhạc, điêu
khắc, hội họa, múa, diễn xướng. Hội làng hàng năm là một dịp sinh hoạt văn nghệ
rôm rả, hấp dẫn nhất ở nông dân.
Nhà
cửa
* Nhà
người Việt miền Bắc:
Nhà
người Việt miền Bắc có nhiều kiểu, nhiều dạng khác nhau thể hiện ở kết cấu bộ
khung nhà, chủ yếu là ở các kiểu vì kèo, ở bình đồ, (tổ hợp nhà ), ở tổ chức
mặt bằng sinh hoạt... Song kiểu nhà ba gian hai chái với vì kèo suốt - giá
chiêng - sáu hàng cột là tiêu biểu hơn cả. Cũng có thề là vì kẻ chuyền (một
biến dạng gần của vì kèo suốt). Tổ hợp hai nhà : nhà chính và nhà phụ kết hợp
với nhau theo hình "thước thợ ". Mặt bằng sinh hoạt : gian giữa đặt
bàn thờ tổ tiên, phản gỗ (ghế ngựa) dành cho chủ nhà và bàn ghế tiếp khách. Hai
gian bên của gian giữa kê giường tủ giành cho các thành viên nam trong nhà. Hai
gian chái có vách (đố hoặc tường) ngăn với ba gian giữa. Trong các gian này
dành cho sinh hoạt của các thành viên nữ, đồng thời còn là nơi để cất lương
thực và các thứ lặt vặt khác. Đó là ngôi nhà chính, còn nhà phụ : một gian hai
chái, vì kèo thường đơn giản (vì kèo cầu hoặc vì kèo - ba cột). nhà này thường
là nhà bếp kết hợp làm nơi để nông cụ, cối xay, cối giã, và chuồng trâu...
* Nhà
người Việt miền Trung:
Nhà
miền Trung, một kiểu nhà rất phổ biến, đó là nhà rường. Vì kèo bốn cột không có
giá chiêng, đặt trên lưng trếng (xà lòng) của hai vì kèo gian giữa người ta đặt
một cái giương dùng làm kho. Yếu tố này chúng ta có thể thấy ở nhà một số cư
dân thuộc ngôn ngữ Môn-Khơ me cực nam Trung Bộ : Mạ, Chil. Cơ ho, Xtiêng...Cách
bố trí trong nhà có khác nhà miền Bắc đôi chút.
Nói đến
nhà miền Trung còn phải kể đến một kiểu nhà khá đặc biệt, đó là nhà lá mái. Nhà
gồm hai lớp nóc : lớp trong bằng đất, lớp ngoài lợp lá, chủ yếu là để chống gió
Lào.
Trang
phục
* Có đủ
các chủng loại y phục khăn áo, váy, quần, khố (trước đây), mũ nón, giày dép...
và trang sức. Có đặc trưng riêng về phong cách mỹ thuật khác với các dân tộc
cùng nhóm ngôn ngữ và lân cận.
─
Trang phục nam
Trang
phục thường nhật:
Nhìn
chung người Việt (Bắc, Trung, Nam), thường ngày mặc áo cách nâu, xẻ ngực, cổ
tròn, xẻ tà, hai túi dưới. Đây là loại áo ngắn mặc với quần lá tọa ống rộng. Đó
là loại quần có cạp hoặc dùng dây rút. Trước đây nam để tóc dài, búi tó, hoặc
thắt khăn đầu rìu, đóng khố...
Trong lễ, tết, hội hè:
Trong lễ, tết, hội hè:
Nam
thường mặc áo dài màu đen, hoặc loại vải the có lót trắng bên trong, đầu đội
khăn xếp, quần tọa màu trắng. Đó là loại áo dài, xẻ nách phải không trang trí
hoa văn, nếu có chỉ là loại hoa văn dệt cùng màu tinh tế trên vải. Chân đi guốc
mộc.
─
Trang phục nữ
Trang
phục thường nhật:
Phụ nữ
miền Bắc và bắc Trung bộ thường mặc áo cách ngắn vải nâu phía trong mặc yếm. Đó
là loại áo cổ tròn, viền nhỏ, tà mở; nếu mặc với yếm thì thường không cài cúc
ngực. Chiếc yếm màu vàng tơ tằm hay hoa hiên, nâu non, là vuông vải mang chéo trước
ngực, góc trên khoét tròn hay chữ v để làm cổ. Cổ yếm có dải vải buộc ra sau
gáy, dưới có hai dải vải dài buộc sau lương hình chữ nhật hoặc tam giác. Váy là
loại váy kín ( ống ), có nơi mặc ngắn đến ống chân như Bắc và Trung bộ. Thắt
lương là bao lương bằng vải màu (có nơi gọi là ruột tượng) quấn ra ngoài cạp
váy. Khi ra đường họ thường mang khăn vuông đội theo lối "mỏ quạ"
hoặc các loại nón: thúng, ba tầm...
Trung phục trong lễ, tết, hội hè:
Trong những dịp này phụ nữ Việt
thường mang áo dài. Aáo dài có hai loại: Loại
xẻ ngực buông vạt không cài cúc bên trong thường mặc áo 'cổ xây' cho kín đáo;
loại thứ hai là loại áo năm thân, xẻ nách phải cổ đứng. Có loại mặc theo lối
vạt đè chéo lên nhau dùng dây lưng buộc ngang thân rồi buông xuống phía trước.
Họ thường để tóc dài vấn khăn thành vành tròn quanh đầu, ngoài trùm khăn hoặc
đội nón ba tấm, nón thúng. Các thiếu nữ thường búi tóc đuôi gà. Mùa rét phổ
biến quấn trên đầu chiếc khăn vuông màu thâm. Đồ trang sức thường mang là các
loại trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách từng vùng.
Phụ nữ Nam Bộ thường ngày mặc áo bà ba với các kiểu cổ tròn, cổ trái tim, cổ bà lai. Phụ trang đi kèm với bộ bà ba là chiếc khăn rằn thường có ô vuông xen kẽ hai màu, là loại khăn có nguồn gốc của người khơ me mà người Việt đã ảnh hưởng. Chiếc nón lá có sườn nón gồm những nan tre xếp thẳng dọc và khoảng 16 vòng nan tre xếp tròn đường kính từ nhỏ xíu trên đỉnh nón đến lớn dần theo vành nón. Ngày nay, chiếc nón lá thường được sử dụng trong lớp phụ nữ bình dân và ở vùng nông thôn, vì chức năng của nó phần lớn che nắng cho người lao động vất vả, nên phải chắc bền và tương đối cứng cáp chớ không nhẹ nhàng, mỏng manh như nón lá bài thơ ở Huế.
Phụ nữ Nam Bộ thường ngày mặc áo bà ba với các kiểu cổ tròn, cổ trái tim, cổ bà lai. Phụ trang đi kèm với bộ bà ba là chiếc khăn rằn thường có ô vuông xen kẽ hai màu, là loại khăn có nguồn gốc của người khơ me mà người Việt đã ảnh hưởng. Chiếc nón lá có sườn nón gồm những nan tre xếp thẳng dọc và khoảng 16 vòng nan tre xếp tròn đường kính từ nhỏ xíu trên đỉnh nón đến lớn dần theo vành nón. Ngày nay, chiếc nón lá thường được sử dụng trong lớp phụ nữ bình dân và ở vùng nông thôn, vì chức năng của nó phần lớn che nắng cho người lao động vất vả, nên phải chắc bền và tương đối cứng cáp chớ không nhẹ nhàng, mỏng manh như nón lá bài thơ ở Huế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét