Dân tộc Brâu
Tên gọi khác
Brạo
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
200 người.
Cư trú
Tập trung ở làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum
Đặc điểm kinh tế
Dân tộc Brâu đã bao đời du canh du cư. Người Brâu chủ yếu đốt rừng làm rẫy để trồng các loại lúa, ngôi, sắn, với công cụ sản xuất thô sơ như: rìu, rựa và chiếc gậy chọc lỗ tra hạt, năng suất cây trồng thấp.
Hôn nhân gia đình
Thanh niên nam nữ Brâu được tự do lấy vợ, lấy chồng. Nhà trai tổ chức hỏi vợ phải nộp lễ vật cho nhà gái, nhưng đám cưới thì tiến hành tại nhà gái, và chàng rể phải ở lại nhà vợ khoảng 2 đến 3 năm rồi mới được làm lễ đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Trước hết là người Brâu rất chú trọng làm đến việc làm đẹp cho ngôi nhà. Điều này được thể hiện ở các kiểu "sừng đầu đốc". Chỉ trong một làng nhỏ mà chúng tôi đã thấy bốn kiểu khác nhau. Chạy dọc theo sống nóc người ta còn dựng một dải trang trí không chỉ đẹp mà còn rất độc đáo.
Nam ở trần đóng khố. Đến tuổi 14, 15, 16 tuổi phải cưa bốn
răng cửa hàm trên, và thường xăm mặt, xăm mình.
Tên gọi khác
Brạo
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
200 người.
Cư trú
Tập trung ở làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum
Đặc điểm kinh tế
Dân tộc Brâu đã bao đời du canh du cư. Người Brâu chủ yếu đốt rừng làm rẫy để trồng các loại lúa, ngôi, sắn, với công cụ sản xuất thô sơ như: rìu, rựa và chiếc gậy chọc lỗ tra hạt, năng suất cây trồng thấp.
Hôn nhân gia đình
Thanh niên nam nữ Brâu được tự do lấy vợ, lấy chồng. Nhà trai tổ chức hỏi vợ phải nộp lễ vật cho nhà gái, nhưng đám cưới thì tiến hành tại nhà gái, và chàng rể phải ở lại nhà vợ khoảng 2 đến 3 năm rồi mới được làm lễ đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Tục
lệ ma chay
Theo
phong tục người Brâu, người chết được đưa ra khỏi nhà, cho vào quan tài độc mộc
và quàn tại một căn nhà riêng do dân làng dựng lên. Mọi người đến chia buồn, gõ
chiêng cồng, mấy ngày sau mới mai táng. Những ché, gùi, dao, rìu... bỏ lại
trong nhà mồ là số của cải gia đình cho người chết.
Văn
hóa
Người
Brâu ưa thích chơi cồng chiêng và các nhạc cụ cổ truyền. Chiêng cồng có các
loại khác nhau. Đặc biệt có bộ chiêng tha (chỉ gồm hai chiếc) nhưng có thể trị
giá từ 30 đến 50 con trâu. Các thiếu nữ thường chơi Krông pút là nhạc cụ gồm
5-7 ống lồ ô dài ngắn không đều nhau đem ghép với nhau, tạo âm thanh bằng đôi
bàn tay vỗ vào nhau ngoài miệng ống. Khi ru con hoặc trong đám cưới... người
Brâu có những điệu dân ca thích hợp. Những trò thả diều, đi cà kheo, đánh phết
cũng là sinh hoạt vui chơi của thanh thiếu niên.
Nhà
cửa
Nhà của
người Brâu có những đặc điểm rất dễ nhận, ít thấy ở nhà những dân tộc khác. Trước hết là người Brâu rất chú trọng làm đến việc làm đẹp cho ngôi nhà. Điều này được thể hiện ở các kiểu "sừng đầu đốc". Chỉ trong một làng nhỏ mà chúng tôi đã thấy bốn kiểu khác nhau. Chạy dọc theo sống nóc người ta còn dựng một dải trang trí không chỉ đẹp mà còn rất độc đáo.
Bộ
khung nhà với vì kèo đơn giản, vách che nghiêng theo thế "thượng khách hạ
thu".
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt: vào nhà từ phía đầu hồi. Thang bắc lên một gian hồi để trống rồi mới vào nhà. Cách bố trí trên mặt sàn của gian hồi này cũng rất đặc biệt. Mặt sàn chia làm ba phần với các độ chênh khác nhau.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt: vào nhà từ phía đầu hồi. Thang bắc lên một gian hồi để trống rồi mới vào nhà. Cách bố trí trên mặt sàn của gian hồi này cũng rất đặc biệt. Mặt sàn chia làm ba phần với các độ chênh khác nhau.
Trong
nhà chia đôi theo chiều dọc, nửa về bên trái, một phần dành cho con gái, còn
lại là nơi sinh hoạt của con trai về ban ngày vì đêm họ ra ngủ tại nhà rông.
Còn nửa kia đặt bếp.
Trang
phục
Tồn tại
một loại hình trang phục đơn giản và có cá tính trong tạo hình và trang trí.
Người Brâu có tục xăm mặt, xăm mình và cà răng. Phụ nữ đeo nhiều vòng trang sức
ở tay chân và cổ.
- Trang phục nam
- Trang phục nữ
Phụ nữ
để tóc dài hoặc cắt ngắn. Xưa mình trần, mặc váy. Đó là loại váy hở, quấn quanh
thân. Thân váy được xử lý mỹ thuật ở phần đầu váy và chân váy với lối đáp các
miếng vải khác màu có các sọc đen ngang đơn giản chạy ngang thân váy. Mùa lạnh
họ mang chiếc áo chui đầu, cộc tay, khoét cổ. Đây là loại áo ngắn thân thẳng,
tổng thể áo có hình gần vuông. Thân áo phía mặt trước và sau được xử lý mỹ
thuật cũng theo nguyên tắc như váy. Toa õn bộ thân trước màu sáng có đường viền
đậm trên vãi và gấu áo; phía lưng áo được xử lý màu sáng có sọc ngang đơn giản
nửa phía dưới áo. Người Rơ Măm không biết dệt, nhưng đây là bộ trang phục thấy
ở họ với một phong cách tạo dáng (áo) khoét cổ (phía trước thấp hơn phía sau) đơn
giản cũng như phong cách thẩm mỹ giản dị (áo và váy) ít gặp ở các dân tộc trong
khu vực cũng như trong nhóm ngôn ngữ (đây cũng là lý do được chọn). Phụ nữ còn
mang trên cổ một vài chuỗi hạt cườm ngũ sắc, hoặc vòng đồng, bạc cũng như vòng
tay bằng các chất liệu trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét