Dân tộc Mạ
Tên gọi khác
Châu Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngắn
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
26.000 người.
Cư trú
Chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng
Đặc điểm kinh tế
Người Mạ làm nương rẫy trồng lúa và cây khác như ngô, bầu, bí, thuốc lá, bông... Công cụ sản xuất thô sơ, có các loại xà-gạt, xà-bách, dao, rìu, gậy chọc lỗ. Ơở vùng Đồng Nai (huyện Cát Tiên) có làm ruộng nước bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng để trâu giẫm đất đến khi sục bùn thì gieo lúa giống (xạ lúa). Người Mạ nuôi trâu, bò, gà, vịt, ngan... theo cách thả trâu, bò vào rừng sống thành đàn, chỉ khi cần giết thịt hoặc giẫm ruộng mới tìm bắt về.
Phụ nữ Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải truyền thống với những hoa văn tinh vi hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Nghề rèn sắt nổi tiếng ở nhiều làng. Họ tự luyện quặng lấy sắt để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí như xà gạt lưỡi cong, lao... Ơở vùng ven Đồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Tên gọi khác
Châu Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngắn
Nhóm ngôn ngữ
Môn - Khmer
Dân số
26.000 người.
Cư trú
Chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng
Đặc điểm kinh tế
Người Mạ làm nương rẫy trồng lúa và cây khác như ngô, bầu, bí, thuốc lá, bông... Công cụ sản xuất thô sơ, có các loại xà-gạt, xà-bách, dao, rìu, gậy chọc lỗ. Ơở vùng Đồng Nai (huyện Cát Tiên) có làm ruộng nước bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng để trâu giẫm đất đến khi sục bùn thì gieo lúa giống (xạ lúa). Người Mạ nuôi trâu, bò, gà, vịt, ngan... theo cách thả trâu, bò vào rừng sống thành đàn, chỉ khi cần giết thịt hoặc giẫm ruộng mới tìm bắt về.
Phụ nữ Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải truyền thống với những hoa văn tinh vi hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Nghề rèn sắt nổi tiếng ở nhiều làng. Họ tự luyện quặng lấy sắt để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí như xà gạt lưỡi cong, lao... Ơở vùng ven Đồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Tổ
chức cộng đồng
Người
Mạ sống thành từng bon (làng), mỗi bon có từ 5 đến 10 nhà sàn dài (nhà dài là
nơi ở của các thế hệ có chung huyết thống). Đứng đầu bon là quăng bon (già
trưởng làng).
Hôn
nhân gia đình
Nhà
trai chủ động trong hôn nhân, nhưng sau lễ cưới chú rể phải sang ở nhà vợ, đến
khi nộp đủ đồ sính lễ cho nhà gái mới được đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Văn
hóa
Kho
tàng văn học dân gian Mạ gồm nhiều truyện cổ, truyền thuyết, huyền thoại độc
đáo. Nhạc cụ có bộ chiêng, đồng, trống, khèn bầu, khèn sừng trâu, đàn lồ ô, sáo
trúc 3 lỗ gắn vào trái bầu khô.
Nhà
cửa
Nhà
người Mạ không chỉ có những đặc trưng đáng chú ý mà còn có thể "đại
diện" cho nhà của người Cơ ho, Chil trên cao nguyên Lâm Đồng. Mạ là cư dân
lâu đời trên mảnh đất này. Hiện nay nhà người Mạ đã có rất nhiều thay đổi. Nhà
sàn chỉ còn ở những vùng cao, vùng thấp nhà đất đã chiếm ưu thế.
Nhà ở
cổ truyền của người Mạ là nhà sàn dài tới 20-30m (nay đã hiếm). Nay vẫn là nhà
sàn nhưng là nhà ngắn của các gia đình nhỏ.
Bộ
khung nhà với ba vì hai hoặc bốn cột. Kết cấu đơn giản thường là ngoãm tự nhiên
và buột lạt. Mái hồi khum tròn nhưng không có "sừng" trang trí. Hai
mái chính cũng hơi khum nên mặt cắt của nóc có hình "parabôn". Mái
nhà rất thấp nên phần mái bên trên cửa, người ta phải làm vồng lên để ra vào
khỏi đụng đầu.
Tổ chức
mặt bằng sinh hoạt cũng có những đặc điểm đáng chú ý: khu vực giữa nhà là nơi
sinh hoạt chung của mọi gia đình (tiếp khách, cúng bái...), nơi này có bàn thờ
thần bếp và có một cái cột để buộc ché rượu cần khi tiếp khách. Còn dưới chân
vách hậu là một dãy dài những ú, ché đựng rượu cần... Các hộ gia đình ở về hai
bên của khu trung tâm.
Phần
diện tích và không gian trong nhà dành cho các gia đình cũng có những đặc điểm
rất dễ nhận: giữa nhà là một kho thóc, mặt sàn kho các mặt sàn nhà khoảng trên
1 mét.
Dưới
gầm kho thóc đặt bếp. Trên bếp có dựa treo. Giáp vách haậu là sạp dành cho mọi
thành viên trong gia đình. Giáp vách tiền là một sạp nhỏ và thấp (khoảng
70-80cm) trên để bát, đĩa, vỏ bầu khô và các thứ lặt vặt khác.
Nhà
người Cơ ho hoặc Chil về hình thức thì nhà của họ cũng giống nhà ngườ Mạ. Cái
khác ở cách bố trí trong nhà là giáp vách tiền, cái sạp ở nhà người Mạ thì
người Cơ ho còn kết hợp làm chuồng hà.
Trang
phục
Có cá
tính riêng về tạo hình áo nữ, đặc biệt là phong cách thẩm mỹ. Mùa làm nông,
nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mền. Có tục cà răng, căng tai, đeo nhiều
vòng trang sức.
-
Trang phục nam
Thường
để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về
kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố trang trọng có đính hạt cườm, tua
dài. Bên cạnh đó họ còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt sau dài hơn vạt trước che
kín mông. Aáo có các loại : dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ lĩnh búi tóc cắm
lông chim có bộ khiên giáo kèm theo.
-
Trang phục nữ
Phụ nữ
để tóc dài búi sau gáy. Xưa họ ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu. Aáo
nữ mặc vừa sát thân, dài tới thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng
nhau; cổ áo tròn thấp. Tổng thể áo chỉ là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân
dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn các màu đỏ, xanh là chính
trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn hình học là chủ yếu.
Chiều dọc hai bên mép áo được dệt viền các sọc trang trí. Váy là loại váy hở
được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Về cơ bản là
các sọc : màu xanh, đỏ, vàng, trắng trên nền chàm chủ yếu là hoa văn hình học
theo nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyền thống. Có trường hợp nửa trên váy
dệt trang trí hoa văn kín trên nền sáng (trắng) với hoa văn hình học màu đỏ
xanh.
Nam nữ
thường thích mang vòng đồng hồ ở cổ tay có những ngấn khắc chìm - ký hiệu các
lễ hiến sinh tế thần cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn
bằng đồng, gà voi, gỗ; cổ đeo hạt cườm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều
vòng xoắn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét