TÓM TẮT : Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam (VCP) phạm nhiều hành vi gian lận trong quá khứ
để đánh lừa người Việt. Kể từ cái
chết của Hồ, Đảng Cộng sản đã tiếp tục thực hành gian lận với thái dối trá và lừa
dối để che đậy hành vi vô đạo đức và hình sự hoặc để tô điểm thêm hình ảnh của
mình cho mục đích tẩy não và nhồi sọ. Bài
viết này cho thấy mười sáu hành vi gian lận phạm của Hồ và / hoặc các VCP trong
nỗ lực của họ để làm sai lệch lịch sử cho lợi ích riêng của họ từ năm 1930 đến
năm 2014. Những gian lận lịch sử có tác động tàn phá đối với nhân dân Việt Nam,
đặc biệt là trẻ nhỏ.
"Một quốc gia mà không biết những gì nó là ngày hôm qua,
không biết những gì nó là ngày hôm nay." Woodrow Wilson (1856 - 1924), Tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ.
GIỚI THIỆU
Gian lận là bản chất cơ bản của Hồ Chí Minh và đã được
các phương châm của Đảng Cộng sản Việt Nam (VCP) trong nhiều thập kỷ (Cao-Đắc
2014c). Trong cầm quyền Việt Nam,
Hồ và ĐCSVN đã sử dụng tất cả các loại thủ thuật, được hỗ trợ bởi bạo lực, để
buộc những người đi theo con đường ngoại giao. Một trong những hành vi lừa đảo tàn nhẫn
nhất và hèn nhát của họ là hành động gian lận lịch sử.
Trong khi những gian lận lịch sử không trực tiếp ảnh hưởng
đến các khía cạnh vật lý của các nạn nhân trong ngắn hạn, sức tàn phá sâu rộng
và ảnh hưởng đến toàn bộ dân số đối với nhiều thế hệ. Khi các hành vi gian lận lịch sử được
thiết kế, triển khai, thúc đẩy, khuyến khích, và được bảo vệ bởi một chính phủ,
thực chất chỉ là một tội phạm nghiêm trọng. Hồ
và ĐCSVN là những tên tội phạm gây ra tội ác này, được hỗ trợ bởi bạo lực và
tàn bạo.
Tội này là tàn nhẫn hơn giết người máu lạnh, bởi vì nó điều
khiển ý muốn của nạn nhân và biến nó thành một niềm tin mù quáng để
perpertators có thể khai thác năng lực sản xuất của các nạn nhân cho lợi ích
riêng của họ. Nó giết chết nhiều
thế hệ từ từ và các nạn nhân thường không biết họ đang được âm thầm tra tấn và
sẽ chết cái chết chậm. Nó phá hủy
tâm trí của nhân dân, làm suy yếu khả năng suy luận, và biến nó thành những
công nhân vâng phục vụ những người cai trị. Ngay
sau đó, niềm tin mù quáng sẽ trở thành nô lệ. Các
nạn nhân có thể chất tồn tại nhưng linh hồn và tâm trí của họ thuộc về những
người cai trị. Hiệu quả cuối cùng
của quá trình này là tai hại: những người một lần bất khuất Việt sẽ được tận diệt.
Tội này là hèn nhát vì đa số nạn nhân là trẻ em vô tội,
những người trẻ tuổi, người hiền lành và tử tế, hoặc những người không có
phương tiện vật chất hay tinh thần tự vệ. Là
lực lượng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản cưỡng hiếp tinh thần các em bằng
cách tẩy não và các kỹ thuật trong các trường học và các hoạt động xã hội nhồi
sọ. Nó sử dụng các lực lượng an
ninh của mình để im lặng, với bạo lực và tàn bạo, những người phản đối. Bất đồng chính kiến đang bị tù. Các luồng thông tin bị cấm. Tự do ngôn luận bị hạn chế.
Trong thế kỷ 21, sự tồn tại của những hành vi gian lận lịch
sử và sự tàn bạo kèm theo là một thảm kịch nhân của thứ tự cao nhất. Trong khi một số nạn nhân đã có thể
thoát khỏi những thiệt hại về tinh thần giáng xuống trên họ, đa số người dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ, vẫn còn bị nhốt trong nhà tù tinh thần của gian lận lịch sử.Phơi
bày các gian lận do đó là một bước cần thiết để khôi phục lại sự công bình của
người dân Việt. Điều gì sau phơi
bày mười sáu gian lận lịch sử quan trọng cam kết của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản
từ năm 1930 đến năm 2014. Những gian lận có những đặc điểm điển hình của những
người cộng sản: tàn bạo, hèn nhát, ác, ngu ngốc, ngu ngốc, và kiêu ngạo.
THE SIXTEEN gian lận LỊCH
SỬ
Hiện có hàng ngàn gian
lận lịch sử phạm của Hồ và ĐCSVN. Nó
sẽ mất một ngàn lượng hoặc hàng chục ngàn trang dày để liệt kê tất cả các
incredible gian lận, dối trá, lừa dối và phạm của ĐCSVN và những người tiền nhiệm
của nó. Ngoài gian lận lịch sử, Hồ
và ĐCSVN cũng cam kết nhiều loại khác của gian lận: chính trị, xã hội, kinh tế,
ngoại giao và văn hóa. Một loại đặc
biệt của gian lận là sự thờ phượng của Hồ Chí Minh. Trong bài viết này, việc thờ cúng Hồ sẽ
không được trình bày đơn giản chỉ vì nó sẽ mất một cuốn sách rất dày để thảo luận
về nó.
Mười sáu gian lận lịch
sử sau đây đại diện cho mô hình cộng sản gian lận, dối trá, và lừa dối. Trong khi tất cả các gian lận đã được
biết đến với mức độ khác nhau của bề rộng và chiều sâu của các học giả và sử
gia phương Tây, không phải tất cả trong số họ được biết đến bởi những người Việt
sinh sống tại Việt Nam. Chính phủ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (SRV) đã áp đặt các quy tắc nghiêm ngặt
cấm truy cập vào các tài liệu chống cộng sản, tin tức và thông tin trong thế giới
tự do trong nhiều năm qua. Ngoài
ra, nó có một ngân sách hầu như không giới hạn để trang trải các chi phí tuyên
truyền, bao gồm cả việc sản xuất một số lượng vô số các cuốn sách và các tài liệu
có chứa các hành vi gian lận trong lịch sử, và những việc làm của một nhân viên
rất lớn của các tuyên truyền viên, các nhà phân tích, bình luận, và các học giả
mà chính công việc là thực hiện và bảo vệ các hành vi gian lận lịch sử.
Nhiều người trong số
các hành vi gian lận được giới thiệu trong sách giáo khoa trong các trường học
hoặc trình bày trong tài liệu chính phủ được phân phối hoặc có sẵn cho công
chúng. Các em học những sự kiện lịch
sử lừa đảo hay những câu chuyện trong các niềm tin sai lầm rằng họ là đúng sự
thật. Ngay cả nhiều người lớn,
khi đã trải qua các hệ thống trường học cùng, có niềm tin sai lầm này.
Các gian lận lịch sử
bao gồm các hành có ý nghĩa lịch sử và có thể được phân thành các loại sau đây:
(1) hoạt động mà ban đầu gian lận hoặc lừa đảo; (2) hoạt động đó bao che, che giấu
hành vi vô đạo đức được thực hiện bởi những người cộng sản; (3) các hành vi bóp méo sự thật của sự
kiện lịch sử để tôn tạo các hình ảnh cộng sản hay để bôi nhọ lực lượng đối lập
hiện tại hay quá khứ (ví dụ, chế độ cũ VNCH) cho mục đích tẩy não và nhồi sọ; (4) các hành vi mà bỏ qua, xem nhẹ, hoặc
giảm thiểu tác động của sự kiện lịch sử được xem là gây tổn hại cho những người
cộng sản.
1. Xô Nghệ Tĩnh
(1930-1931) đã được ban đầu một cuộc nổi dậy của nông dân, không có sự tham
gia, hãy để một mình lãnh đạo, từ cộng sản Đảng.
Một trong những hành
vi gian lận sớm nhất theo cam kết của VCP là cái gọi là Liên Xô Nghệ Tĩnh. Theo VCP, "[r] ight sau khi thành
lập, Đảng lãnh đạo nhân dân trong cả nước tăng lên cho [cách mạng] đấu tranh, đạt
đến đỉnh điểm với phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh trong 1930-1931" (ĐCSVN năm
2012 ). ĐCSVN tuyên bố rằng
"[t] ông ban đầu Liên Xô Việt trong lịch sử Đảng ta là sự phát triển rõ
ràng đang ở đỉnh cao của cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân và nông dân
trong cả nước trong 1930-1931" (ĐCSVN năm 1976, 205).
Trong thực tế, cuộc khởi
nghĩa Nghệ Tĩnh ban đầu một cuộc nổi dậy của nông dân, không có sự tham gia,
hãy để một mình lãnh đạo, từ Đảng Cộng Sản Đông Dương (ICP), tiền thân của
ĐCSVN. Nó cũng không có bất cứ điều
gì tương tự như các chính quyền địa phương "Liên Xô".
Nguyên nhân chính của
phong trào "đã được nông dân dis-hài lòng với điều kiện kinh tế"
(Duiker 1973, 192). Đặc biệt, ở
Nghệ An, "thu hoạch lúa mùa năm 1929 và vụ thu hoạch thứ năm-tháng năm
1930 đều xấu" (Bernal 1981, 157). Các
VCP (hoặc ICP tại thời điểm đó) có thể đã miễn cưỡng tham gia chỉ sau khi cuộc
nổi dậy trở nên phổ biến bởi vì "[t] ông bên là tổ chức và chuẩn bị về mặt
lý thuyết vào năm 1930 cho một cuộc đối đầu quan trọng với quyền lực của Pháp
và. . . các
lãnh đạo đã nhận thức rõ rằng một cuộc nổi dậy sẽ là quá sớm "(Duiker
1973, 197).Đảng do đó đã "buộc vào vị trí hỗ trợ một cuộc nổi dậy mà nó
không thực sự muốn" (ibid.).
Những người nông dân
thậm chí không biết những gì búa liềm và cờ đỏ đứng.Nhiều người nghĩ rằng lá cờ
này là cờ của chính phủ (ibid., 190). "[E]
vidence dường như cho thấy rằng [ICP] lãnh đạo đã không khởi sự Liên Xô, và
cũng không nó đã chấp thuận cho họ khi họ xuất hiện, nhưng một khi phong trào
đã được tiến hành để họ có thể được hỗ trợ đến cùng" (ibid., 198 ). "Không có hồ sơ của bất kỳ chỉ thị
đặc biệt được gửi sang Trung, hãy để một mình đến Nghệ-Tĩnh" (Bernal 1981,
159). "[T] ở đây là hoàn
toàn không có dấu hiệu cho thấy các nhà lãnh đạo cảm thấy rằng thời gian đã
đúng" (ibid.). Sự tham gia của
cộng sản trong cuộc nổi dậy, do đó, chỉ đơn thuần là một phản ứng với một fait
accompli (Duiker 1973, 197).
Ngoài unpreparedness của
Đảng đối với các cuộc nổi dậy, có một lý do thuyết phục tại sao ĐCSVN không muốn
lãnh đạo một phong trào "cách mạng" như vậy.Trong suốt thời gian của
cuộc khởi nghĩa, ĐCSVN đã được đổi tên thành ICP trong tháng 10 năm 1930 với sự
đốc thúc của Quốc tế cộng sản (Duiker 2000, 187). "[T], ông xuất bản tài liệu của hội
nghị [đã] đáng ngạc nhiên ít quan tâm đến các sự kiện diễn ra tại Nghệ-Tĩnh"
(Duiker 1973, 193). Nhưng ICP chỉ
trích Ban chấp hành vì ủng hộ các hành động đại chúng và nhận xét rằng liên
minh giữa công nhân và nông dân trong khu vực đã không thống nhất cao (Duiker
2000, 188). Điều này rõ ràng là
không phù hợp với sự phê phán của Quốc tế cộng sản vào năm 1929 là vai trò
trung tâm của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam đã không đủ nhấn mạnh
(ibid., 186).
ĐCSVN đã cố gắng để
rút ra những kết nối giữa công nhân và nông dân trong phong trào, nhưng trong
thực tế, các cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh thực chất là phong trào nông dân. Số liệu thống kê dân số cho thấy rằng
những người trí thức, nông dân và tiểu tư sản bao gồm 73% của các đảng viên ở
Nghệ Tĩnh trong tháng 12 năm 1930 (Bernal 1981, 164), khó có một tỷ lệ phần
trăm đó sẽ được xem xét khi thuận lợi bởi Quốc tế cộng sản. Các ICP thừa nhận vấn đề này và đưa
các chỉ dẫn rằng "vì chưa thực hiện sự chỉ đạo của Đảng trong công cuộc đấu
tranh giai cấp trong làng và có những sai lầm hữu khuynh, các hiệp hội nông dân
đỏ tuyển phú nông, thậm chí cho phép nông dân giàu tham gia Ban chấp hành"
(ĐCSVN 1976, 239).
Lý do tại sao nhiều đảng
viên cộng sản đã bị bắt hoặc bị giết trong thời kỳ này là "[m] bất kỳ Pháp
ở Đông Dương, từ nhiều năm đã quen với việc đặt một nhãn hiệu Bolshevik trên tất
cả các hình thức của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, đã nhanh chóng nhìn thấy
lãnh đạo cộng sản ở phong trào đình công "(Duiker 1973, 190).Ngoài ra, một
thành viên ủy ban, Ngô Đức Trí, "đã bị bắt giữ bởi người Pháp. . . và không chỉ thú nhận bí mật bên,
nhưng cũng đưa ra vị trí của các thành viên khác của Ủy ban Trung ương
"(ibid, 194;. Dommen 2002, 44). Nói
cách khác, các thành viên cộng sản đã bị bắt và bị giết chết trong cuộc nổi dậy
không phải vì họ đã lãnh đạo cuộc nổi dậy, nhưng vì người Pháp đã hoàn toàn tin
tưởng rằng các cuộc nổi dậy đã được tổ chức bởi họ và do đó đi theo họ.
Vì vậy, làm thế nào được
các nhãn hiệu "Liên Xô" dùng để chỉ cuộc khởi nghĩa nông dân này? Đó là bởi vì Hồ (Nguyễn Ái Quốc vào thời
điểm đó) vội vàng báo cáo với Quốc tế cộng sản trong tháng 11 năm 1930,
"Hiện nay ở một số làng đỏ, Liên Xô nông dân đã được thành lập"
(trích trong Nguyễn năm 2001, 75). Trong
thực tế, không có chính quyền địa phương như Liên Xô trong làng Nghệ Tĩnh tồn tại. Có hiệp hội nông dân mới được thành lập
mà nắm quyền, "thường gọi mình xa bo nong (phần nông thôn) một tên mà vẫn
hiện khắp phong trào" (Bernal 1981, 152). Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng
sản "ngay lập tức bắt đầu đề cập đến chúng như là 'Liên Xô'" (ibid.). Đảng sử gia Việt Nam đã thừa nhận rằng
"không có đồng chí vào thời điểm đó nhận được bất kỳ chỉ thị hay nghe bất
cứ điều gì về việc thành lập chính phủ Liên Xô [trong những ngôi làng]"
(trích trong Nguyễn năm 2001, 75). Vì
vậy, tại sao Hồ gọi cuộc nổi dậy của nông dân một phong trào của Liên Xô? Có hai khả năng: (1) Hồ muốn để làm
hài lòng cấp trên của mình trong Quốc tế cộng sản, và (2) Quốc tế cộng sản ám Hồ
mong muốn của họ để thúc đẩy cộng sản ở các nước khác noi theo gương của những
người cộng sản Việt (Nguyễn năm 2001, 76) .
Bất kể điều gì đã khiến
Hồ gọi cuộc nổi dậy của Liên Xô, các nhãn của Liên Xô và các đặc tính của các
cuộc khởi nghĩa nông dân như các phong trào cách mạng đầu Đảng là hư cấu thuần
túy. ĐCSVN chỉ đơn giản tuyên bố
tín dụng cho các cuộc nổi dậy của nông dân ", chủ yếu ở dạng các bài báo của
các tuyên truyền viên có tay nghề cao Trần Huy Liệu" (Dommen 2002, 44).
Trong thực tế, cái gọi
là Liên Xô Nghệ Tĩnh được châm ngòi bởi một phong trào dân tộc bắt đầu bằng những
cuộc nổi dậy của Yên Bái (McLane 1966, 147-157, ám chỉ cuộc khởi nghĩa Yên Bái
là "Enbay" nổi loạn). Cuộc
nổi dậy của Yên Bái và cuộc khởi nghĩa tiếp theo của Đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng
(Việt Nam Quốc Dân Đảng, hoặc VNQDĐ) đã được dập tắt nhanh chóng bởi người
Pháp. Nhiều thành viên của VNQDĐ,
kể cả lãnh đạo nổi tiếng của Nguyễn Thái Học, đã bị bắt giữ, cố gắng, và thực
thi. Các hoạt động cách mạng dân
tộc đã được hoan nghênh bởi những người cộng sản Liên Xô (ibid., 148-149). Động lực của cuộc khởi nghĩa Yên Bái
lây lan đến các bộ phận khác của Việt Nam và đã dẫn đến nhiều cuộc đình công ở
Sài Gòn và các thành phố khác và các cuộc nổi dậy của nông dân tại vùng phía bắc
của miền Trung Việt Nam, đặc biệt là các khu vực Nghệ Tĩnh (ibid.,
149-150).
Xô Viết Nghệ Tĩnh là một
gian lận nghiêm trọng vì không chỉ những người cộng sản Việt Nam nói là tín dụng
cho một cái gì đó mà họ không xứng đáng, nhưng họ cũng bỏ qua sự đóng góp đáng
kể và sự hy sinh của những người nông dân Nghệ Tĩnh và VNQDĐ.
2. Việt Minh (1941) là
một cái bẫy để lôi kéo những người quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản
Một gian lận chính là
sự hình thành của Việt Minh, được thành lập bởi Hồ và các đồng chí của ông
tháng 5 năm 1941 tại Pắc Bó dưới sự bảo trợ của ICP. Hồ, một đại lý Quốc tế cộng sản, và
các đồng chí cộng sản của ông được hình thành cốt lõi của các nhà lãnh đạo Việt
Minh, nhưng họ giấu hiệp hội cộng sản của họ.
Ngay cả tên của Việt
Minh (viết tắt cho Việt Nam Độc Lập Đồng Minh) tiến hành một hình ảnh gian lận. Hồ lấy tên này từ một tên tương tự như
của các tổ chức được thành lập bởi các quốc gia không cộng sản Hồ Học Lãm ở Nam
Kinh vào cuối những năm 1930 (Duiker 1996, 71; Marr 1997, 165, 250). Vay mượn tên của một tổ chức dân tộc sẽ
được sử dụng cho một tổ chức cộng sản mới được thành lập là một kẻ lừa đảo đáng
khinh. Mục tiêu là rõ ràng: để
đánh lừa mọi người tin rằng Việt Minh là một tổ chức dân tộc.
Để phù hợp với tên mới
này, Hồ và các đồng chí của ông đã giấu hiệp hội cộng sản của họ và khẳng định
rằng "nhu cầu của các hệ tư tưởng và chiến tranh giai cấp đều phải lệ thuộc
vào những người trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc cho độc lập dân tộc"
(Duiker 1996, 71). Với chiến lược
mới này, Hồ và các đồng chí của ông hoan nghênh tất cả các yếu tố pariotic vào
mặt trước chống lại kẻ thù chung (ibid., 71-72) "Không phải chỉ có giai cấp
tư sản và nông dân giàu có, nhưng địa chủ giàu có, thương nhân Trung Quốc ở nước
ngoài, và người Pháp yêu nước được coi là đồng minh tiềm năng "(Duiker
1996, 72). Để ngăn chặn nguy hiểm
gây ra bởi sự chấp nhận của các nhóm khác nhau như vậy, Hồ cho Đảng để kiểm
soát quyền lực trong tổ chức trước. Tuy
nhiên, Hồ "thực hiện một nỗ lực rất lớn để che giấu vai trò của Đảng [] để
tối đa hóa hấp dẫn của mặt trước để ôn" (sđd.).
Các nhà lãnh đạo dân tộc
Việt là "khôn ngoan đủ để nhận ra Việt Minh như một cái bẫy cộng sản"
(Buttinger 1967, 265) và từ chối tham gia. Tuy
nhiên, "Việt Minh đã không được thiết kế để thu hút các nhà lãnh đạo quốc
gia, nhưng những người của họ. . . điều
động họ về mặt chính trị cho đến khi họ bị buộc phải hợp tác với Đảng Cộng sản
"(ibid., 266). Bản chất lừa
đảo của Việt Minh đã làm tệ "niềm tin rằng để thành công về mặt chính trị,
nó là cần thiết để không chỉ là tàn nhẫn, nhưng cũng là dối trá và vô đạo đức
như những người Cộng sản đã dường như luôn luôn được" (ibid.).
3. Cái gọi là Cách mạng
tháng Tám (1945) chỉ là một kết quả của một số sự kiện bất ngờ chủ yếu gây ra bởi
sự bất ngờ "lực chân không" sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh.
Chính phủ của SRV gọi
Cách mạng Tháng Tám "một chiến thắng của các vai trò tích cực trong việc
chuẩn bị các lực lượng, các nghệ thuật của việc tạo ra các cơ hội, nắm lấy cơ hội
và hành động kiên quyết" (Chinhphu 2014). Nó tuyên bố rằng "sự thành công của
Cách mạng tháng Tám không về lợi dụng" quyền lực chân không 'khi xem bởi một
số học giả nước ngoài, "nhưng là về việc chuẩn bị cho đến khi cơ hội đến
khi Nhật Bản phát xít đầu hàng Đồng Minh và người Pháp bị suy yếu (ibid.).
Bất kể sự hùng biện cộng
sản, sự kiện lịch sử không nói dối. Thực
tế cho thấy việc bắt giữ thành công của cộng sản điện là do "một số tình
huống tình cờ" (Duiker 1996, 104), bao gồm: (1) "sự xuất hiện chậm trễ
của Allied lực lượng chiếm đóng sau khi Nhật Bản đầu hàng [rằng] tạo ra một
chân không chính trị tại các đòn bẩy của quyền lực "(Duiker 1996, 104); (2) sự nhầm lẫn tổng thể liên quan đến
tương lai của Việt Nam trong thời gian khoảng thời gian khi Nhật đầu hàng (Vũ
1986, 312); (3) những nỗ lực của
chính phủ Trần Trọng Kim để đạt được hoàn toàn độc lập và thống nhất lãnh thổ của
Nhật Bản (ibid, 313.); (4) Nạn
đói lớn của Ất Dậu rằng "cung cấp những cảm giác tuyệt vọng cho những người
Cộng sản vào làng và thúc đẩy các cuộc nổi dậy của nông thôn" (Duiker
1996, 104-105); (5) chiến thuật sắc
sảo của Việt Minh của quyền đòi phải có sự hỗ trợ của quân Đồng minh; (6) "divisions phe phái và khu vực"
giữa các bên dân tộc khác nhau (Duiker 2000, 105); và (7) các cuộc đảo chính của Nhật lật
đổ Pháp tháng 3 năm 1945 và loại bỏ sự hiện diện quân sự của Pháp ở Việt Nam
cho đến năm 1946.
Vào thời điểm đó, Mỹ
muốn thiết lập một mạng ở Đông Dương để chiến đấu chống lại Nhật Bản và bãi bỏ
hệ thống thuộc địa của Pháp (Lacouture 1968, 267-268). Những việc làm của Mỹ Hồ như một đại
lý để cung cấp thông tin tình báo về các Nhật Bản cũng là tài liệu (Xem, ví dụ,
Bartholomew-Feis 2006, 166, 209). Sự
trợ giúp của Mỹ cho Việt Minh Hồ là do không có nghĩa đáng kể từ một quan điểm
quân sự, nhưng nó cung cấp Hồ với một vũ khí tâm lý mạnh mẽ để giành chiến thắng
trong đức tin và sự tự tin của người dân Việt.
Hồ khai thác vũ khí
tâm lý này đến mức tối đa bao gồm cả sử dụng mánh khóe rẻ tiền. . Năm 1945, tại một cuộc họp với Mỹ
Thiếu Tướng Claire Chennault, Hồ hỏi cho một bức ảnh có chữ ký của Tổng
(Bartholomew-Feis 2006, 157-158; Logevall 2012, 84), để ông có thể sử dụng nó
như là bằng chứng về sự ủng hộ của Mỹ , vẫy nó "giống như một cây đũa thần
về chuyến đi của mình trong khu vực" (Logevall 2012, 84). Trong tháng Tám năm 1945, "chữ ký
hình ảnh Hồ của chung Chennault được hiển thị nổi bật" (Jamieson 1995,
193). Như một mặt lưu ý, trick của
mình bằng cách sử dụng hình ảnh có chữ ký của người có quyền lực để gây ấn tượng
với người khác không phải lúc nào uccessful. Năm
1950, ông hỏi Stalin ký một chân dung (hoặc một tạp chí), nhưng Stalin, một bậc
thầy cộng sản tà ác, xuất hiện để biết lừa Hồ và có những bức ảnh có chữ ký hoặc
tạp chí đưa trở lại (Brocheux 2007, 145; Duiker 2000, 421). Tuy nhiên, không có sự khẳng định về sự
giúp đỡ của Mỹ, thu giữ của chính phủ của Việt Minh sẽ không có nổi lên một
cách nhanh chóng và mạnh mẽ (Lacouture 1968, 269).
Ngoài ra, chính phủ Trần
Trọng Kim, được hình thành vào ngày 17 tháng 4 năm 1945, thực sự đã mở đường
cho một sức mạnh tiếp quản sau khi Nhật Bản đầu hàng. Trong thực tế, "Hồ là người thụ
hưởng chính của những thành tựu của Kim" (Vũ 1986, 316). Trước ngày 17 tháng 8 và đầu hàng trước,
người Nhật đã quyết định cung cấp cho toàn độc lập và thống nhất lãnh thổ Việt
Nam. Các kỷ lục cho thấy rằng
"Kim thu được thống nhất lãnh thổ của đất nước ngay trước khi đầu hàng bất
ngờ của Nhật Bản, và quan trọng hơn, đó là bước chuẩn bị khác nhau đã được thực
hiện trong Thuận-hoa và Nam Bo để thực hiện thống nhất như vậy" (ibid.,
314) . Cần lưu ý rằng đó là người
đã từ chối đề nghị Kim của một số cấp chỉ huy của Nhật Bản sử dụng quân đội Nhật
Bản để nghiền nát Việt Minh (ibid., 315).
"Sự đóng góp
không thể phủ nhận của chính quyền Kim" với cái gọi là Cách mạng tháng
Tám, trớ trêu thay, đã động viên mình tham gia chính trị quần chúng ", bao
gồm các cuộc biểu tình đường phố, các cuộc họp, và các cuộc tuần hành mà giống
một tinh thần độc lập văn hóa và chính trị" (ibid., 313) . Quan trọng hơn, "một thế hệ thanh
niên Việt đã được huy động dưới sự bảo trợ của cả hai chính phủ Kim và các nhà
chức trách Nhật Bản" (ibid.). "Dự
án thanh thiếu niên Kim đã cung cấp cho Việt Minh với hàng chục ngàn người trẻ
là để phục vụ cờ của ICP trong tên của độc lập dân tộc và thống nhất hơn trong
tên của chủ nghĩa Mác-Lênin" (ibid.).
Các sự kiện thực tế đã
diễn ra không giống như một cuộc cách mạng ở tất cả. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, tại Hà Nội,
cán bộ Việt Minh bị xáo trộn một cuộc biểu tình hàng loạt do Hiệp hội những
công chức, ban đầu nhằm kỷ niệm độc lập và thống nhất lãnh thổ và hỗ trợ của
chính phủ Kim của tổ chức, và đã thành công kiểm soát của nó (Vũ 1986, 313;
Duiker 2000, 310-311; Marr 1996, 382-387). "Không
hạn chế bởi cảnh sát Nhật Bản, đám đông được lưu hành qua các đường phố, vẫy
các biểu ngữ và hô to những khẩu hiệu," nhưng ít người "đã có một ý
tưởng rõ ràng về bản chất của phong trào Việt Minh, nay tuyên bố đại diện cho lợi
ích của tất cả các dân tộc Việt Nam" (Duiker 2000 , 312).
4. Hồ khai của độc lập
(1945) lừa dối người dân Việt vì Hồ đã lên kế hoạch bán ra Việt Nam sang Pháp
hai tháng trước đó.
Ngày 2 tháng 9 năm
1945, Hồ Chí Minh đọc một bài diễn văn tuyên bố độc lập, vay từ trong Tuyên
ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên bố về các quyền của con người và của công dân từ
cuộc Cách mạng Pháp. Ông lên án
gay gắt "nhân vật tàn bạo và phi dân chủ của chế độ thực dân Pháp"
(Duiker 1996, 104).
Trong thực tế, Hồ đã
thực sự sẵn sàng để bán ra ngoài Việt Nam, ngay cả khi người Pháp là một lực lượng
bất lực ở Việt Nam. Vào tháng Bảy
năm 1945, ông "đề nghị tái lập tạm thời thống trị của Pháp cho đến khi nền
độc lập của Việt Nam đã được đảm bảo. . . trong
khoảng thời gian 5-10 năm "(Huyền 1971, 72-73; Sainteny năm 1972, 43, fn
**). Đề xuất này ngay cả khi người
Pháp vẫn còn dưới sự kiểm soát của Nhật Bản, rõ ràng cho thấy rằng tuyên bố độc
lập của Hồ chỉ là lừa Hồ để giành chiến thắng trong trái tim của người dân Việt. Cần lưu ý rằng tuyên bố độc lập của Hồ
chỉ là như vậy, một tuyên bố, không hơn không kém. Nó không có nghĩa là độc lập của Việt
Nam đã được đảm bảo. Hồ hiểu điều
đó rất tốt, như giao dịch của mình với người Trung Quốc và người Pháp sau đó tiết
lộ. Tháng 7 năm 1945 đề xuất của
ông, do đó, vẫn còn tươi mới trong tâm trí của mình khi ông đọc bài phát biểu của
mình vào ngày 02 tháng chín.
Ngoài ra, cùng với Hồ
Chí Minh, Võ Nguyên Giáp lừa dối người dân Việt bằng cách tuyên bố để có sự hỗ
trợ của quân Đồng minh. Giáp,
ngay sau khi bài phát biểu của Hồ nhân, bài phát biểu của mình, tuyên bố:
"Hoa Kỳ... Đã đóng góp lớn nhất cho cuộc chiến Việt Nam chống lại phát xít
Nhật, kẻ thù của chúng ta, và vì vậy Mỹ Republic tuyệt vời là một người bạn tốt
của chúng ta "(Xem, ví dụ, Cao Đắc-2014b, cho một danh sách các tài liệu
tham khảo). Kêu gọi sự hỗ trợ
đáng kể của Mỹ "các [đóng góp] lớn nhất đối với cuộc chiến Việt Nam chống
lại phát xít Nhật" là một lời nói dối trắng trợn.
5. "Tuần lễ
vàng" (1945) là một ngụy trang cho lấy vàng và tiền bạc của nhân dân để hối
lộ Trung Quốc và Tổng Lu Han
Ngày 28 Tháng 8 1945,
bốn đội quân Kuomingtan "tổng cộng 180.000 người đàn ông dưới sự chỉ huy của
tướng Lu Han, vượt qua biên giới Bắc Kỳ" (Huyền năm 1971, 97) trong nhiệm
vụ giải giáp quân Nhật. Ngày 14
Tháng 9 năm 1945, quân đội Trung Quốc Kuomingtan vào Bắc Việt Nam (Willbanks
2009, 8). Hồ và các đồng chí của
mình, đặc biệt là Võ Nguyên Giáp, đã lo lắng rằng quân đội Trung Quốc là mối đe
dọa nghiêm trọng đối với những người Cộng sản, vì chỉ huy của họ "đã phát
triển một mối quan hệ thân thiện với các đối thủ của ICP, các Minh Hoi Dong và
VNQDD" (Duiker 1996, 115 ; Marr 1996, 499).
Hồ và các đồng chí của
ông đã tổ chức Tuần lễ Vàng ("Tuần lễ vàng") trong thời gian 16-ngày
22 tháng 9 năm 1945, "hấp dẫn cho mọi người để biến vàng và có giá trị
khác để chính phủ có thể mua vũ khí từ Trung Quốc" (Willbanks 2009,
8)."Tuần lễ vàng" đưa vào "400 kg hoặc 800 kg vàng và 20 triệu
[Đông Dương] piasters" (Huyền 1971, 100). Tổng giá trị của vàng và tiền mặt từ
các "Tuần lễ vàng" là khoảng $ 33.000.000 trong năm 2014. Không nhiều,
nhưng nó là một tài sản cho người dân nghèo ở miền Bắc Việt Nam vào năm
1945.
Điều gì là vàng và thu
tiền sử dụng cho? Theo các tài
khoản cộng sản ", số tiền này được sử dụng để giúp các chính phủ để giải
quyết các vấn đề tài chính tại thời điểm đó, việc mua vũ khí để xây dựng lực lượng
quốc phòng" (QĐND 2010).Trong thực tế, "số lượng lớn [tặng thu] đã được
sử dụng để mua chuộc những người cư ngụ của Trung Quốc" (Huyền 1971, 100;
Willbanks 2009, 8). Đặc biệt, khi
"đến Lu Han tại Hà Nội, Hồ đã chào đón anh ta với một món quà tuyệt vời, một
thuốc phiện vàng hút thuốc thiết lập vững chắc" (Huyền 1971, 100; cũng
Buttinger 1967, 634 N79; Harrison năm 1989, 107).
Hối lộ của Trung Quốc
Hồ đã giúp giảm sự căng thẳng giữa những người cộng sản và người Trung Quốc chiếm
đóng. Nó cũng tạo điều kiện giao
dịch của mình với các bên dân tộc khác nhau của Việt Nam.
6. Việc giải thể Đảng
Cộng sản Đông Dương (1945) đã được thiết kế để xoa dịu quân đội Quốc Dân Đảng
chiếm đóng và khác nhau bên dân tộc Việt
Dưới áp lực của các
dân tộc người tìm thấy sự hỗ trợ của Trung Quốc Quốc Dân Đảng, Hồ giải tán ICP
năm 1945. Việc giải thể là để loại bỏ tên "cộng sản" từ Hiệp hội Hồ để
tránh sự xuất hiện của liên kết cộng.
Trong thực tế, "sự
tan rã của ICP là chỉ là một thủ Hồ" (Huyền 1971, 103). Đảng tiếp tục công việc của mình theo
tên Hiệp hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác (Hội nghiên cứu chủ nghĩa Marx) (Duiker
2000, 349-350). Đảng đã chính thức
refounded với một tên mới, Đảng Lao Động Việt Nam '(VWP - Đảng Lao động Việt
Nam) vào năm 1951 sau khi Hồ vững chắc bảo đảm sự ủng hộ của Trung Quốc cộng sản
và Liên Xô.
Việc giải thể của ICP
trong năm 1945 là hành vi gian dối tuyệt vọng để "trấn an các lệnh của
Trung Quốc về bản chất dân tộc chủ nghĩa của chính phủ Việt Minh và để làm cho
nó hấp dẫn hơn cho phi Cộng sản Việt Nam" (Huyền 1971, 103). Nó cũng được sử dụng để kháng cáo đến
Hoa Kỳ để được giúp đỡ. Việc giải
thể Công ICP "đã phục vụ để bôi trơn các cuộc đàm phán hòa bình"
(Duiker 2000, 350).Tổng Xiao Wen đã tổ chức một cuộc họp giữa các đại diện của
các đảng cộng sản và các thành viên của đảng dân tộc chủ nghĩa. "Các bên đồng ý về nguyên tắc việc
thành lập một chính phủ liên minh rộng rãi gồm các thành viên của nhiều tổ chức"
(Duiker 2000, 350).
Các nỗ lực của Hồ và
ĐCSVN ở ẩn hiệp hội cộng sản thật sự của họ trong khi Hồ là người lãnh đạo của
cái gọi là phong trào cách mạng cho thấy rõ ràng bản chất lừa đảo của họ.
7. Các thỏa thuận
Sainteny (1946) đã giúp hợp pháp hóa các chính phủ cộng sản và sử dụng tiếng
Pháp để giúp trong việc loại bỏ các dân tộc
Các thỏa thuận đã ký
giữa Hồ và Jean Sainteny trên 6 Tháng ba 1946, cho phép quân đội Pháp để trở về
Bắc Việt Nam là một gian lận đôi. Trên
bề mặt, nó trông giống như Hồ thừa nhận với Pháp bằng cách cho phép họ để mang
lại 25.000 quân vào Bắc Việt Nam để đổi lấy sự công nhận Pháp của nước Cộng hòa
Dân chủ Việt Nam (DRV) như là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và
khối Liên hiệp Pháp (Huyền 1971, 123, 131; Logevall 2012, 133).
Trong thực tế, nó là một
hành động lừa đảo được thiết kế bởi Hồ và Đảng của ông, hoạt động như Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác, để đạt được hai mục tiêu chính: (i) để đạt được công
nhận là lực lượng chính trị Việt Nam chính thức duy nhất tại Việt Nam (Logevall
2012, 135), và (ii) để sử dụng sức mạnh quân sự của Pháp trong việc loại bỏ các
bên dân tộc đối thủ.
Hồ và Đảng của ông biết
rằng soán ngôi quyền lực của họ trong tháng 8 năm 1945 là bất hợp pháp bởi vì
nó không có hỗ trợ thực sự từ người dân. Các
cuộc bầu cử nói chung trên 06 tháng 1 năm 1946 đã gian lận với rất nhiều sai phạm
(Huyền 1971, 107-110) rằng Hồ và Đảng của ông đã tìm mọi cách để khẳng định giá
trị của họ. Thỏa thuận Hồ-Sainteny
sẽ cung cấp cho thế giới và nhân dân Việt Nam một cảm giác rằng chính phủ không
chỉ Hồ là hợp pháp, nhưng nó cũng là lực lượng chính trị duy nhất đại diện cho
Việt Nam. Ngoài ra, các dân tộc
đã trở thành ngày càng đe dọa, đặc biệt là với sự hỗ trợ của Trung Quốc chiếm
đóng. Trong khi giả vờ thừa 70 chỗ
ngồi để các dân tộc trong quốc hội, Hồ và Đảng của ông đã được chuẩn bị một
cách bí mật để loại bỏ lực lượng của họ. Pháp
sẽ được vui mừng để cung cấp một bàn tay trong quá trình xóa này vì họ cũng sẽ
dập tắt một lực lượng đối lập.
Để cung cấp cho sự xuất
hiện rằng ông không muốn ký hợp đồng Sainteny, Hồ nói rằng ông thà ngửi đi tiêu
Pháp trong một thời gian hơn so với ăn excrements Trung Quốc cho phần còn lại của
cuộc đời mình (Logevall 2012, 133). Trong
thực tế, ông đã biết Pháp sẽ trở về Bắc Việt Nam có hoặc không có hợp đồng với
Sainteny và Trung Quốc sẽ để lại Bắc Việt Nam sớm. Ông đã được nhận thức của các cuộc đàm
phán Trung-Pháp ở Trùng Khánh, mà kết quả trong một hiệp ước về ngày 28 tháng 2
năm 1946 (Huyền 1971, 111). Theo
hiệp ước Trung-Pháp này, trao đổi với nhiều ưu đãi từ Pháp, Trung Quốc đồng ý
rút quân khỏi Đông Dương trong tháng Ba, năm 1946 (Huyền 1971, 111). Trong thực tế, một lực lượng của một số
21.000 người đàn ông từ lần thứ IX của Sư đoàn bộ binh thuộc địa và Division
Armored thứ hai của Pháp đã được gửi đi trên tàu chiến từ Sài Gòn đi Bắc vào cuối
tháng 2 năm 1946 (Logevall 2012, 132). Các
thỏa thuận Sainteny, do đó, chỉ đơn thuần là bảo đảm người Pháp rằng các lực lượng
Việt sẽ không tham gia vào các hoạt động thù địch với người Pháp.
Với sự giúp đỡ của
quân đội Pháp, Việt Minh dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp bị giết một cách hệ
thống hàng ngàn người quốc gia vào năm 1946 (Huyền 1971, 163). Cuộc thảm sát của người quốc gia và
các nhà lãnh đạo quốc gia trong tương lai cũng là tài liệu (Xem, ví dụ, Cao Đắc-2014b). Khi chiến tranh nổ ra giữa Pháp và Việt
Minh vào tháng Mười Hai năm 1946, "nó không phải ngẫu nhiên mà Hồ trở
thành lãnh đạo của các kháng đáng kể duy nhất" vì "[h] e đã giết chết
gần như tất cả những người khác" (Nixon năm 1985, 35) .
8. Điện Biên Phủ thắng
lợi (1954) đã đạt được nhờ vào sự hỗ trợ của Trung Quốc và sự đóng góp của nông
dân Việt Nam, người đã hứa hẹn sở hữu đất đai,
Trận Điện Biên Phủ
(1954) đã được ca ngợi bởi các chính phủ cộng sản như là một chiến thắng trái đất
rung. Theo chính phủ cộng sản,
chiến thắng được "ghi nhận trong lịch sử của nhân dân Việt Nam như một Bạch
Đằng, một Chi Lăng hay một chiến thắng Đống Đa trong thế kỷ 20" (Chính phủ
CHXHCNVN). Tuyên bố này là một sự
bóp méo trắng trợn của sự kiện lịch sử. Cách
cân bằng cuộc chiến Điện Biên Phủ đến Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa và những trận
đánh là thiếu tôn trọng tuyệt đối với lịch sử của Việt Nam và một sự xúc phạm
không thể tha thứ cho Ngô Quyền, Lê Lợi và Nguyễn Huệ. Trận Điện Biên Phủ là gì so với những
trận chiến trong mọi khía cạnh.
Trận Điện Biên Phủ là
chỉ đơn giản là một trận chiến quyết định bởi người Trung Quốc cộng sản tại các
chi phí của hàng chục ngàn sinh mạng của người dân Việt.Sự hỗ trợ của Trung Quốc
cho Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ đã được biết đến rộng rãi (Xem, ví dụ,
Cao Đắc-2014b).
Huy động lực lượng hỗ
trợ hậu cần, Đảng Hồ dựa chủ yếu vào nông dân nghèo với lời kêu gọi lòng yêu nước
và những lời hứa của đất trong các chiến dịch cải cách ruộng đất (Zhai 2000,
38, 41-42). Cuối cùng, những người
cộng sản đã huy động một lực lượng lớn cung cấp gần 300.000 nhờ các cuộc gọi lừa
đảo cho lòng yêu nước mà buộc người lao động trí tuệ và hợp tác để chống Pháp
(Xem, ví dụ, Cao Đắc-2014b cho một danh sách các tài liệu tham khảo) . Với năm bộ phận của 47.500 binh sĩ và
viện trợ quân sự khổng lồ từ Trung Quốc cộng sản, được hỗ trợ bởi lực cung rất
lớn, Việt Minh bao vây Điện Biên Phủ, bảo vệ bởi một lực lượng kết hợp của một
số 20.000 quân chiến đấu, cho năm mươi lăm ngày. Điện Biên Phủ sụp đổ vào ngày 07 tháng
5, năm 1954. Việt Minh thương vong ước tính đạt 7.900 người chết và 15.000 người
bị thương trong khi thiệt hại của Pháp là 2.204 người chết, 6.452 người bị
thương và 3.610 mất tích (mùa Thu 2002, 484, 487).
Với số liệu thống kê
như vậy, làm thế nào dám VCP so sánh Điện Biên Phủ với Bạch Đằng, Chi Lăng hay
Đống Đa? Người nước ngoài không
quen thuộc với những Bạch Đằng, Chi Lăng hay Đống Đa trận chiến có thể nghĩ rằng
những trận đánh lịch sử tương tự như các trận chiến Điện Biên Phủ về bản chất của
cuộc chiến (bao vây một pháo đài trong 55 ngày), vận động lớn của những người
lính và lực lượng hậu cần hỗ trợ chống lại một lực lượng kẻ thù nhỏ (350.000 so
với 20.000), thương vong (23.000 so với 9.000), và viện trợ nước ngoài nặng. Những loại Bonehead nghĩ như một cách
để xúc phạm người Việt và các anh hùng dân tộc Ngô Quyền, Lê Lợi và Nguyễn Huệ?
Trận Điện Biên Phủ
cũng là một cơ hội cho các VCP để tôn làm thần Võ Nguyên Giáp. Trong thực tế, sự tàn ác của Giáp, coi
thường mạng sống của con người (bao gồm cả những người lính của mình), khả
năng, và hèn nhát đã được nổi tiếng (Xem, ví dụ, Cao Đắc-2014b cho các nguồn
khác nhau; Đặng 2013).
Ngày 13 Tháng 10 năm
2013, đám tang của Giáp đã được tổ chức với quy-lát và lộng lẫy. Hàng chục ngàn người đưa tiễn lót lên
đường cao tốc đến sân bay, nơi các quan tài đã được đưa tới nhà ông Tỉnh. Hàng ngàn người công khai kêu lên. Gần một năm sau, một hình ảnh hoàn
toàn khác nhau nổi lên. Ngày 2
Tháng 9 năm 2014, bộ phim "Sống cùng với lịch sử", "hoàn toàn
tài trợ bởi tiền của Nhà nước" vào khoảng $ 21 tỷ đồng (khoảng $ 1.000.000
$) và với nội dung ca ngợi chiến thắng Điện Biên Phủ và Võ Nguyên Giáp, là rạp
phát hành tại Hà Nội. Chỉ sau vài
ngày, buổi chiếu phim đã được ngừng lại bởi vì nó thu hút một chỉ 2, 3 khán giả
bộ phim mỗi ngày (Tuổi 2014b). Nhiều
thắc mắc tại sao hàng chục ngàn người đã bỏ vào xếp các đường cao tốc và khóc
dolorously trong tang lễ của Giáp nhưng chỉ có một vài người đi xem một bộ phim
tôn vinh Người.
9. Các cuộc nổi dậy Quỳnh
Lưu (1956) là một cuộc nổi dậy quy mô lớn đòi hỏi toàn bộ một sư đoàn quân đội
Việt Bắc để ngăn chặn nó, nhưng VCP xem nhẹ cường độ của nó, bóp méo nguyên
nhân của nó, và không đề cập về sự đàn áp tàn bạo.
Trong tháng 11 năm
1956, nông dân từ các huyện Quỳnh Lưu ở Nghệ An, chủ yếu là người Công giáo, bắt
đầu một cuộc nổi dậy kéo dài trong vài ngày. Những
người nông dân biểu tình phản đối "việc tạm giữ người thân và tịch thu tài
sản bị cáo buộc có liên quan đến các chương trình cải cách ruộng đất, việc từ
chối quyền di chuyển miền Nam. . ., Và những hình phạt nặng nề gây ra
trên những người đã cố gắng để di chuyển "(Nutt 1970, 3). Vấn đề thực sự "bắt đầu xuất hiện
vào năm 1955, khi những người phản đối cho rằng họ đã bị ngăn chặn bởi các quan
chức chính phủ từ di cư vào Nam" (Duiker 2000, 486-487). Các "người dân địa phương có tiếng
là người đàn ông tự hào và độc lập" (JUSPAO 1966, 1), nhưng các "cán
bộ Đảng thường xuyên lên án các nhà lãnh đạo Công giáo địa phương như phản động
và phá hoại" (Duiker 2000, 487).
Trong một khoảng thời
gian vài ngày, nông dân, "một số 20.000 trong tất cả, cầm gươm và nông cụ
ngạc nhiên bảo vệ Cộng sản, mất vũ khí của họ và thu giữ một số cài đặt chính
phủ huyện" (JUSPAO 1966). Khẩu
hiệu phản đối của họ, khá giống với hiện đang sử dụng tại Việt Nam, bao gồm
"Down với các quốc gia cộng sản bán!" Và "Hãy để chúng tôi lái
xe quân đội Cộng sản Trung Quốc từ Bắc Việt Nam!" (Moyar 2006, 63). Tuy nhiên, không giống như tình hình
hiện nay ở Việt Nam, nơi các lực lượng an ninh và cảnh sát ngoan ngoãn làm theo
các hướng dẫn của chính phủ, trong Quỳnh Lưu "nhiều binh sĩ, bản thân từ
gia đình nông dân, công khai hay ngầm đứng về phía quân nổi dậy" (JUSPAO
1966, 2). Một số đơn vị dân quân
từ các huyện Quỳnh Lưu "gia nhập quân nổi dậy en masse"
(ibid.).
Hà Nội ngay lập tức gửi
toàn bộ một sư đoàn quân đội đến khu vực này, đầu tiên các Sư đoàn 304, sau đó
tham gia của các yếu tố của một tiểu đoàn pháo binh và hai trung đoàn (JUSPAO
1966, 3). Nó cũng đã được báo cáo
rằng "Giáp đã gởi đơn vị của mình gần nhất, Sư đoàn 325, để đàn áp các cuộc
nổi dậy" (Currey 1999, 222). Các
binh sĩ quân đội nhanh chóng bị đàn áp các cuộc nổi dậy. "Đơn vị tàn nhẫn của tướng Giáp bị
giết hoặc bị thương hơn một ngàn nông dân" (Currey 1999, 222). Họ thậm chí còn "bắn bừa bãi vào
những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em" (Nutt 1970, 3). "Ở đỉnh cao của hoạt động khoảng
20.000 quân chiến đấu Bắc Việt là trong lĩnh vực tìm kiếm ra 2.000 hoặc quá nổi
dậy đã chạy trốn đến những ngọn đồi" (JUSPAO 1966, 3). "Cuối cùng, hầu hết các phần tử nổi
dậy đã bị giết hoặc bị bắt mặc dù vài trăm trong số họ đã trốn thoát đến Nam Việt
Nam" (JUSPAO 1966). Ngoài
ra, các lực lượng chính phủ bắt giữ và trục xuất hơn sáu nghìn để làm việc và
các trại cải tạo (Currey 1999, 222).
Trong khi bản chất tàn
bạo của những người cộng sản đã không hoàn toàn bất ngờ, phản ứng nhanh chóng và
to lớn đã hơi ngạc nhiên. Hóa ra
đó là lý do cho sự đàn áp tàn bạo và nhanh chóng là để cho thấy người Trung Quốc
rằng tất cả mọi thứ đã được kiểm soát. "Ngày
18 tháng 11, một phái đoàn Trung Quốc do Chu Ân Lai đến Hà Nội" (Ang 1997,
42). Mặc dù lần Zhou mặt tại Hà Nội
đã không được quảng cáo, nó "được biết đến về trước" (ibid.). Chính phủ VNDCCH, trong sự háo hức của
mình để làm hài lòng tổng thể của Trung Quốc của nó, không muốn lo lắng Zhou với
một số nông dân nổi dậy.
Vì những lý do hiển
nhiên, ĐCSVN đã giảm bớt cường độ của cuộc nổi dậy. Một bài báo cộng sản đã báo cáo rằng
các cuộc nổi dậy là một sơ đồ bố trí bởi người Mỹ và chính phủ Nam Việt Nam. "Mỹ-Diệm đạo phản động người,
nhân danh tôn giáo, đã lợi dụng các quyền tự do tôn giáo để xuyên tạc chính
sách của chúng tôi sửa lỗi trong cải cách ruộng đất và kích động dân số Công
giáo, gây ra cuộc nổi dậy bạo động ở Quỳnh Lưu" (Lê 2004) . Không có báo cáo về các vụ giết người
của nông dân và việc trục xuất hàng ngàn phần tử nổi dậy bị bắt để làm việc và
các trại cải tạo.
Các cuộc nổi dậy Quỳnh
Lưu năm 1956 cũng tương tự như các cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh năm 1930 ở nhiều khía
cạnh: vị trí địa lý (Nghệ An), quân nổi dậy (nông dân), cường độ, bạo lực, và sự
đàn áp tàn bạo. Tuy nhiên, trong
thế giới cộng sản, các cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu đã bị lãng quên trong khi các cuộc
nổi dậy Nghệ Tĩnh đã được tuyên bố với vinh quang là do lãnh đạo giỏi của
ĐCSVN.
Công văn 10 Phạm Văn Đồng
của Trung Quốc (1958) cho thấy một trong hai nhân vật phản bội của VCP hoặc thực
hành vi lừa đảo của mình cho đồng minh của mình.
Các vụ việc liên quan
đến văn Phạm Văn Đồng của Trung Quốc để đồng ý với các tuyên bố của Trung Quốc
về lãnh hải được biết đến rộng rãi. Giá
trị pháp lý của chữ Đồng vẫn còn đang tranh cãi, nhưng giá trị pháp lý của chữ
đó không phải là vấn đề ở đây.
Các tranh chấp đảo có
thể được hiểu theo hai cách khác nhau, theo Hồ và niềm tin đồng chí của mình
trong tình trạng sở hữu của các đảo vào thời điểm đó. Nếu họ tin rằng các quần đảo thuộc về
VNDCCH lúc đó, sau đó thư Đồng là bằng chứng rõ ràng về hành động phản bội của
họ đã bí mật bán một phần lãnh thổ của đất nước họ ra nước ngoài để đổi lấy
"bạn tốt" giữa hai nước. Nếu
họ không tin các đảo thuộc về VNDCCH tại thời điểm và áp đảo thuộc về Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) thay vào đó, sau đó thư Đồng là bằng chứng rõ ràng về hành vi lừa
đảo của mình cho người khác, ngay cả người bạn thân nhất của họ. Trong cả hai trường hợp, Hồ và các đồng
chí của ông đã hành động thiếu đạo đức và vi phạm các yếu tố cơ bản của niềm
tin và sự trung thực trong việc đối phó với người dân của họ hoặc với các nước
khác trong các vấn đề quốc tế.
Chính phủ của SRV có
thể hoặc không thể áp dụng một cách hợp pháp trong vụ tranh chấp quần đảo,
nhưng họ không thể chiến thắng được về mặt đạo đức.
11. Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam (1960) là một thiết bị tạo ra bởi các VCP nhưng VCP phủ nhận
điều này cho đến sau khi họ chiếm miền Nam năm 1975
Năm 1960, những người
cộng sản ở miền Bắc được thành lập và điều khiển các trận Dân tộc Giải phóng (MTGP)
và Provisionary Chính phủ Cách mạng của nó (PRG) nhưng đã bị từ chối quan hệ của
họ với quân giải phóng cho năm (Joes 2001, 49). Chỉ sau khi Bắc Việt Nam xâm lăng miền
Nam Việt Nam đã công khai thừa nhận rằng họ "[t] ông Provisionary Chính phủ
Cách mạng luôn đơn giản là một nhóm phát ra từ VNDCCH" (trích trong Trường
năm 1986, 268).
Có lẽ một trong những
hành vi gian lận tồi tệ nhất theo cam kết của VCP sắp đối mặt với người dân của
họ, NFL và PRG. "Sau chiến
thắng năm 1975, Mặt trận và các PRG không chỉ không có vai trò hơn nữa để chơi; họ đã trở thành một trở ngại tích cực
để củng cố quyền nơi "(Trường năm 1986, 268). Theo lời của cựu bộ trưởng tư pháp của
PRG, "với tổng số quyền lực trong tay, họ bắt đầu để hiển thị các thẻ của
họ trong thời trang tàn bạo nhất" (ibid.).
12. Chiến tranh Việt
Nam (1954-1975) đã được tiến hành bởi Hồ và ĐCSVN bằng lừa dối người dân ở miền
Bắc và tạo ra sự chia rẽ và hận thù giữa các dân tộc Việt Nam.
Các gian lận tồi tệ nhất,
và bạo lực đã được sử dụng để che phủ lên các gian lận và / hoặc để thăng tiến
các mục tiêu cộng sản, cam kết của Hồ và ĐCSVN, là kế hoạch xấu xa của họ trong
tiến hành chiến tranh chống lại Nam Việt Nam và Hoa Kỳ. Chương trình này là ác vì nó đã lợi dụng
tình yêu huynh đệ từ bi của người Việt và biến nó thành một sự hận thù sâu đậm
đối với các đế quốc tưởng tượng và chính phủ bù nhìn trong tên của lòng yêu nước. Kết quả là các chất thải của hàng triệu
sinh mạng.
Hồ và ĐCSVN thực hiện
gian lận trắng trợn của họ bằng những lời dối trá và lừa dối. Để người dân ở miền Bắc Việt Nam, họ vẽ
những bức tranh của Nam Việt Nam là một quốc gia bị áp bức bởi một chính phủ xấu
xa người sử dụng một đơn vị trực thuộc đội quân rất lớn cho người Mỹ chủ nghĩa
đế quốc. Nhiều người miền Bắc tin
rằng Nam Việt Nam là một đất nước nghèo mà nhân dân đã bị cướp bởi những người
lính Việt Nam và họ đã có các nghĩa vụ cao để giải phóng anh em của họ khỏi sự
đàn áp và chấm dứt khổ đau của họ (Herrington 1982, 192). "Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã thực
hiện một công việc đầy ấn tượng của bán dân Bắc Việt vào sứ mệnh thiêng liêng của
anh em miền Nam tiết kiệm của mình từ các ly hợp của chủ nghĩa đế quốc"
(ibid., 264).
Dương Thu Hương, một
nhà văn và một nhà đấu tranh chính trị, đã bị sốc tại các sự lừa dối của cộng sản
khi cô chứng kiến điều kiện ở Nam Việt Nam so với miền Bắc vào năm 1975. Cô
nói, "Sau khi vào Nam, tôi nhận ra rằng chế độ ở miền Bắc là một chế độ
man rợ vì nó làm mù mắt người dân và bao gồm tai của họ "(Đinh 2012).
13. Lê Văn Tám (1945)
và Nguyễn Văn Bé (1967) cho thấy sự cố tâm lý ngu ngốc của những người cộng sản
trong chế tạo những hình ảnh anh hùng để phục vụ MỤC TIÊU của họ.
Những câu chuyện về Lê
Văn Tám và Nguyễn Văn Bé đều nổi tiếng (Xem, ví dụ, Nguyên 2013; Southerland
1971; Phan 2009). Những người cộng
sản coi họ thành anh hùng đã hy sinh cuộc sống của họ trong các cuộc chiến
tranh chống Pháp và Mỹ, và nâng chúng để chết vì đạo. Vấn đề là có những yếu tố hư cấu trong
câu chuyện của họ. Lê Văn Tám là
một nhân vật bịa đặt với một hành động anh hùng tưởng tượng dựa trên một sự cố
thực tế và Nguyễn Văn Bé là một người thực sự có một câu chuyện hư cấu. Những người cộng sản Việt đã nói dối
và làm nên những câu chuyện về họ. Không
có những người thực sự đã chết và không có hành vi anh hùng đã được tiến hành.
Mặc dù có những bằng
chứng không thể chối cãi của những lời nói dối, chính phủ của SRV vẫn giữ hình ảnh
anh hùng của họ. Câu chuyện Lê
Văn Tám đã được kể lại trong cuốn sách học tập tại các trường tiểu học. Một số trường học, quỹ học bổng, tượng
đài, công viên, đường phố, và nhiều địa điểm địa lý trên khắp Việt Nam được
mang tên ông. Một số đường phố có
tên là Nguyễn Văn Bé đã được thay đổi sau năm 1975, nhưng vẫn có một số trường
học có tên là Nguyễn Văn Bé.
Tâm lý cộng sản là
không thể hiểu nổi. Bằng cách giữ
tên của anh hùng chế tạo cho các trường học, đường phố và công viên, chính phủ
của SRV khuyến khích việc thực hành vi gian lận, dối trá, và lừa dối. Họ gợi ý cho những người mà những câu
chuyện về các anh hùng, liệt sĩ cộng sản khác cũng có thể được chế tạo. Một mặt, sự ngu ngốc này là thực sự tốt,
vì nó là sự thật rằng nhiều câu chuyện về anh hùng cộng sản được chế tạo. Mặt khác, những thiệt hại thảm khốc vì
anh hùng thực sự trong lịch sử có thể bị giả định xấu tương tự. Các thông điệp rõ ràng nó muốn gửi đến
các trẻ em là, "Đó là OK để nói dối, miễn là nó phục vụ cho mục tiêu của
cách mạng và tôn vinh tinh thần anh dũng của nhân dân Việt Nam." Không có
thắc mắc sinh viên Việt ghét học lịch sử. Đối
với họ, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ và nhiều
anh hùng dân tộc khác chỉ có thể là ký tự chế tạo, giống như Lê Văn Tám; hoặc họ có thể là những người thực sự
nhưng hành vi anh hùng của họ là hư cấu, giống như những người của Nguyễn Văn
Bé.
14. Vụ UNESCO (1989)
không chỉ lừa dối người dân Việt mà còn mang lại sự xấu hổ quốc gia về Việt Nam
khi Hồ Chí Minh được đánh giá kém hơn một học giả Thái.
Năm 1987, chính phủ của
SRV thông UNESCO Việt Nam sẽ tổ chức sinh nhật lần thứ 100 của Hồ vào ngày 19
tháng 5 năm 1990, và nói rằng Hồ là một người đàn ông tuyệt vời của văn hóa từ
Việt Nam (Bùi 2006, 82). UNESCO
chỉ đơn thuần thông qua nghị quyết đề nghị các nước thành viên tham gia trong lễ
kỷ niệm một trăm năm ngày sinh Hồ của ông viết rằng "năm 1990 sẽ đánh dấu
một trăm năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng Việt giải phóng dân tộc
và con người vĩ đại của nền văn hóa" (Bùi 2006, 81-83; UNESCO năm 1987,
134-135).
Bởi rõ ràng bằng cách
sử dụng tính từ "Việt" ở đầu của cụm từ để đủ điều kiện toàn bộ cụm từ,
UNESCO chỉ đơn giản lặp đi lặp lại những gì chính phủ của SRV yêu cầu rằng Hồ
Chí Minh là một anh hùng giải phóng dân tộc Việt và một người đàn ông tuyệt vời
của văn hóa Việt. Tất nhiên ông
là một anh hùng và người đàn ông tuyệt vời để những người cộng sản của cộng sản
Việt Nam, cùng một cách như Hitler là một anh hùng và người đàn ông tuyệt vời để
phát xít Đức Quốc Xã, Kim Jong Il đến Bắc Triều Tiên của Bắc Triều Tiên, Mao Trạch
Đông với Trung Quốc cộng sản của Trung Quốc, và Stalin để cộng sản Xô Viết của
Liên Xô trong suốt cuộc đời của họ.
Mặc dù có chỉ định rõ
ràng này, các quan chức cộng sản Việt Nam, dù là do vô minh, ngu dốt, hoặc hiểu
sai ý, giải thích cụm từ UNESCO là "anh hùng Việt giải phóng dân tộc và thế
giới / người đàn ông lớn quốc tế của văn hóa." (Nhấn mạnh thêm.) Các tên gọi
của Hồ là một trong những "người đàn ông vĩ đại của nền văn hóa thế giới"
được bao gồm trong sách giáo khoa được sử dụng trong các trường học ở Việt Nam. ("Hồ Chí Minh cũng là một người
đàn ông tuyệt vời trên thế giới văn hóa, một nhà thơ vĩ đại - Hồ Chí Minh còn
be a Danh nhân văn hoá thế giới, one nhà thơ lớn") (BGDĐT 2011a, 141). Những tuyên bố rằng Hồ là một
"người đàn ông nổi tiếng thế giới của văn hóa" được công bố trong
phương tiện truyền thông của chính phủ (Chinhphu 2010; Trương 2014).
UNESCO rõ ràng từ chối
công nhận Hồ là một con người vĩ đại của nền văn hóa quốc tế. Thay vào đó, UNESCO công nhận là công
dân Thái Lan là một học giả văn học thế giới trong cuộc họp này và bao gồm
tuyên bố này trong cùng một phần. Đây
là một bằng chứng cụ thể rằng Hồ, một người đứng đầu nhà nước, được đánh giá là
kém hơn so với một công dân Thái.
Trong toàn bộ phần phụ
(sub-section 18,65) ở độ phân giải, UNESCO chỉ được sử dụng những từ như
"công dân" và "Việt" để mô tả Hồ. Ngoài ra, UNESCO cẩn thận diễn đạt các
hành động được "lưu ý" và "xem xét". Ngược lại, trong các
tiểu mục dành cho một trăm năm ngày sinh của Phya Anuman Rajadhon, một học giả
Thái, UNESCO tuyên bố "Công nhận rằng Phya Anuman Rajadhon là một học giả
lớn có đóng góp cho văn học thế giới sẽ luôn được nhớ đến và đánh giá cao, và
là ánh sáng dẫn đường thời với ông và các thế hệ tiếp theo hướng tới chân, thiện
và vẻ đẹp "(UNESCO năm 1987, 133. nhấn mạnh trong bản gốc).
Việc sử dụng các từ
"công nhận" và "thế giới văn học" trong việc mô tả Phya
Anuman Rajadhon rõ ràng là một sự tương phản rõ rệt với các từ "lưu
ý", "xem xét" và "quốc gia" mô tả Hồ. Kể từ khi UNESCO sử dụng "công nhận"
và "thế giới văn học" cho Phya Anuman Rajadhon nhưng không cho Hồ Chí
Minh trong cùng một phần trong cuộc họp này, rõ ràng là UNESCO từ chối "nhận
ra" Hồ vì những đóng góp trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật,
thậm chí ở Việt Nam, chúng ta hãy xem xét một mình Hồ cho rằng tầm cỡ thế giới
tại / cấp độ quốc tế. Chắc chắn,
công nhận Hồ vì những đóng góp cho thế giới văn hóa là điều không thể.
Đó là tâm-boggling rằng
chính phủ của SRV không thể hiểu được những khác biệt đơn giản. Xem xét thực tế là Phya Anuman
Rajadhon chỉ đơn thuần là một học giả Thái và Hồ Chí Minh là một đầu Việt của
nhà nước, sự việc này nên được coi là một sự sỉ nhục quốc gia. Thay vào đó, chính phủ của SRV bóp méo
UNESCO tuyên bố, tự hào trong đó và lây lan nó trên khắp đất nước. Trong khi thế giới, và đặc biệt là
Thái Lan, được cười tại Việt Nam, người dân Việt khoe khoang về Hồ là một
"người đàn ông nổi tiếng thế giới của văn hóa." Ngoài việc sử dụng của
một người không xứng đáng để đại diện cho nền văn hóa của Việt Nam, chính phủ của
SRV xấu đi tình hình bằng cách bóp méo sự thật để đánh lừa người dân.
Có xấu hổ nghiêm trọng
hơn là chính phủ của SRV có thể mang lại cho người dân Việt Nam?
15. Các bộ phim truyền
hình "Mậu Thân 1968" (2013) của đạo diễn Lê Phong Lan là một nỗ lực
tuyệt vọng để xóa tội không kể xiết của những người cộng sản.
Ngày 25 Tháng 1 năm
2013, các đài truyền hình Việt Nam VTV1 bắt đầu phát sóng series 12 phần
"Mậu Thân 1968" được thực hiện bởi đạo diễn Lê Phong Lan (Lê 2013). Theo Lê Phong Lan, cô đã đi du lịch
qua lại giữa Việt Nam và Mỹ trong 10 năm và "đã gặp và phỏng vấn khoảng
200 nhân chứng" từ tất cả các bên (cộng sản, Mỹ, và Việt Nam Cộng Hòa) để
tìm kiếm sự thật (Lê 2013 ). Đáng
buồn thay, sự thật cô đang tìm kiếm, trong thực tế, chỉ đơn thuần là một nỗ lực
tuyệt vọng trong xóa tội không kể xiết của những người cộng sản. Amusingly, các series "Mậu Thân
1968" xuất hiện để cho thấy rằng nó là khoảng thời gian cho những người cộng
sản để mang lại "sự thật" với ánh sáng sau 45 năm im lặng. Ai có thể tin rằng những người cộng sản
bao giờ đã sẵn sàng để được im lặng trong 45 năm khi họ nghĩ rằng họ đã
"vu cáo"? Tuyên truyền
là một kỹ năng mà họ đã luôn tự hào và họ đã có được trong sự im lặng trong 45
năm?
Ngang nhiên, phần 8,
có tựa đề "Bài hát ấn tượng," phủ nhận vụ thảm sát Huế đã được gây ra
bởi những người Cộng sản Việt Nam, và thay vì đổ lỗi cho vụ đánh bom của Mỹ và
quân đội VNCH. Trong một clip, phỏng
vấn Lê Phong Lan Nguyễn Đắc Xuân, người nói rằng vụ thảm sát là do các cuộc tấn
công tâm lý của các clip RVN.The trích dẫn lời của học giả người Mỹ Noam
Chomsky, Edward S. Herman, và D. Gareth Porter đã bày tỏ rằng chôn cất trong
ngôi mộ tập thể là do các vụ đánh bom của Mỹ và VNCH trả đũa chống lại thiện cảm
với cộng khi họ tái chiếm Huế, và một số các cơ quan này thuộc về những người
lính cộng sản đã chết trong cuộc chiến. Dòng
này của quốc phòng không có công đức. Mọi
người đều biết Nguyễn Đắc Xuân là một trong những kẻ giết người đã giết các
công dân của Huế. Kẻ giết người
khác bao gồm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan
Trinh. Các phỏng vấn một chiều của
một kẻ giết người bị cáo buộc về tội giết người, ông bị cáo buộc cam kết là một
hành động phản cảm trong một bộ phim tài liệu lịch sử. Chỉ trích từ các học giả phản chiến về
chiến tranh là một nỗ lực khá ngu ngốc của những người muốn viết lại lịch sử.
Vì vậy, nó không có gì
ngạc nhiên khi bộ phim "Mậu Thân 1968" không bao giờ đề cập đến các
nhân chứng quan trọng nhất và tài liệu về vụ thảm sát Mậu Thân: Tiến sĩ Alje
Vennema và cuốn sách có tựa đề "The Vietcong Massacre tại Huế" và xuất
bản năm 1976 (Vennema 1976 ). Tiến
sĩ Alje Vennema, một cảm tình của phong trào chống chiến tranh, là nhân chứng
đáng tin cậy nhất trong vụ thảm sát Mậu Thân vì bản thân ông tham gia trong việc
định vị các gravesites và kiểm tra phần còn lại của nạn nhân để xác định nguyên
nhân của cái chết với độ chính xác của một y tế bác sĩ. Thậm chí D. Gareth Porter, các nhà sử
học Ameican chống chiến tranh người bảo vệ những người cộng sản, thừa nhận rằng
tiến sĩ Vennema là một nhân chứng. Porter,
tuy nhiên, sử dụng các báo cáo trái ngược với báo cáo của Tiến sĩ
Vennema.
Trong cuốn sách của
mình, Tiến sĩ Vennema mô tả chi tiết trong các gravesites, số lượng các cơ
quan, và làm thế nào các nạn nhân đã chết. Ngoại
trừ một vài trường hợp nạn nhân có thể đã chết do chiến tranh, vết thương trưng
bày hầu hết do thực hiện, nhiều người với tay bị trói và giẻ nhét vào miệng. Tiến sĩ Vennema tự hỏi, "[D] id
những người đàn ông của Mặt trận và các cố vấn của họ tại Hà Nội cho rằng họ có
quyền giết, nếu như bất cứ con người có quyền giết người đồng bào của
mình?" (Vennema 1976, 183) . "Không
có vấn đề gì họ hy vọng đạt được, những bi kịch của Huế sẽ mãi mãi là một bản
cáo trạng về hành vi của họ" (ibid.). Tiến
sĩ Vennema nhấn mạnh rằng không có sai lầm trong mỗi của các vụ giết người. "Các vụ giết người đã không được
thực hiện trong cơn giận dữ, sợ hãi, hoặc jusr trước khi rút lui;. Họ đã có chủ
ý Hầu hết trong số họ đã được đánh dấu người có tên đã lên danh sách để bị tiêu
diệt, những người khác bởi vì chúng được kết nối với các lực lượng vũ trang hoặc
với chính quyền Sài Gòn "(ibid., 184).
Ngoài cuốn sách của Tiến
sĩ Vennema, có hàng trăm nhân chứng và các tài liệu cho thấy các vụ thảm sát Mậu
Thân năm 1968 là một vụ giết người hàng loạt tàn bạo gây ra bởi những người cộng
sản sau các chính sách cộng sản ở Hà Nội. Chi
tiết về các gravesites và các cơ quan và các nguồn khác nhau được ghi nhận một
cách cẩn thận (Xem, ví dụ, Vennema 1976; Cao-Đắc 2014a, 367-374).
Tiến sĩ Vennema qua đời
vào năm 2011 tại British Columbia, Canada. Nếu
Lê Phong Lan là chân thành trong nỗ lực của mình để tìm kiếm sự thật
"trong 10 năm qua", cô sẽ phỏng vấn ông khi ông còn sống, hoặc ít nhất
là cô nên đã tham khảo ý cuốn sách của ông. Lê
Phong Lan tuyên bố, "Somebody hỏi tôi nếu tôi thực hiện bộ phim tài liệu
này một cách công bằng, tôi muốn trả lời rằng tôi phải công bằng vì đây là về
nghề nghiệp của tôi và tên tốt của tôi" (Lê 2013). Lê Phong Lan thực sự đã đưa ra một ý
nghĩa mới cho từ "công bằng" hay cô đã coi thường tên tốt của cô, nếu
cô ấy có một.
16. Các cuộc triển lãm
của cải cách ruộng đất 1946-1957 (2014) đã cố gắng để che đậy tội giết chết hơn
170.000 người dân vô tội:
Ngày ngày 08 tháng 9
năm 2014, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã mở triển lãm của Cải cách ruộng đất
1946-1957 với thông báo: "Cuộc triển lãm mang tên Cải cách ruộng đất
1946-1957 là một hoạt động góp phần vào việc tuyên truyền và giáo dục của khối
công cộng, đặc biệt thế hệ trẻ để họ có thể có một cái nhìn chính xác hơn về
cách mạng ruộng đất trong giải phóng của nhân dân ta trong 1946 - 1957
"(Dân năm 2014). Triển lãm
trưng bày gần 150 sản phẩm, tài liệu gốc, và hình ảnh về chương trình cải cách
ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam trong những năm 1950, nhưng không có màn hình hiển
thị của bất kỳ mặt hàng về việc thực hiện của hơn 170.000 nạn nhân.
Triển lãm được dự kiến
sẽ mở cửa cho công chúng cho đến cuối năm 2014. Tuy nhiên, chỉ sau 4 ngày,
triển lãm đã được đóng lại với một lý do đặc biệt của một số "vấn đề điện"
(Tuổi 2014a). Việc đóng cửa đột
ngột của triển lãm cho thấy rằng đảng cộng sản đã nhận ra sự ngu ngốc của nó
khi nó cố gắng để che đậy tội ác của thực hơn 170.000 nạn nhân vô tội. Thời gian này, VCP không còn có thể lừa
dối mọi người bằng những lời gian dối vì sự thật về các chiến dịch cải cách ruộng
đất đã được biết đến rộng rãi thông qua các phương tiện thông tin truyền thông
và Internet.
Triển lãm mở cửa lên
các vết thương của vụ thảm sát dã man người vô tội trong những thời kỳ đen tối
nhất trong lịch sử Việt Nam. Nó
nhắc nhở người thân sống của các nạn nhân của cơn đau mà họ đã phải chịu đựng
trong hơn một nửa thế kỷ.Tại sao chính phủ của SRV muốn làm điều đó?
KẾT LUẬN
ĐCSVN đã tồn tại trong
hơn tám mươi năm nhờ vào ba yếu tố: sự gian lận, tàn bạo, và may mắn. Không có gì có thể làm về may mắn là. Nó cũng khó để thay đổi các đặc tính
tàn bạo của cộng sản. Nhưng gian
lận là liên kết yếu nhất của nó. Nó
có thể được tiếp xúc.
ĐCSVN đã không bao giờ
thực sự thừa nhận họ phạm những hành vi gian lận lịch sử. Điều này cho thấy rằng họ sẽ tiếp tục
gian lận phạm và các hành vi tội phạm.Trong thực tế, đó là chính xác những gì
đang xảy ra ngay bây giờ ở Việt Nam. Hơn
nữa, nó cần có thời gian cho một gian lận để được khám phá. Dù VCP đang làm hiện nay có thể không
được biết đến cho đến hai mươi, ba mươi hay năm mươi năm sau. Hai mươi năm sau khi chiến tranh Việt
Nam kết thúc, tổng số thương vong của Bắc Việt Nam cuối cùng đã được tiết lộ. Năm mươi năm sau khi cải cách ruộng đất
đẫm máu, VCP tiết lộ tổng số chủ đất thực hiện. Sáu mươi năm sau khi vụ việc Lê Văn
Tám, những câu chuyện có thật nổi lên. Theo
hệ thống độc đảng, không có một cơ chế kiểm tra và cân bằng, không có cách nào
cho người dân Việt để biết chính phủ của họ đang làm.
Các phong trào
"Chúng tôi muốn biết", đưa ra bởi mạng lưới các blogger Việt trong
tháng 9 năm 2014 (Dân 2014b), đòi hỏi chính phủ phải đáp ứng cho công chúng về
các vấn đề có ảnh hưởng đến chủ quyền của đất nước. Với một nền văn hóa sâu sắc về hành vi
gian lận và dối trá, cùng với bản chất tàn bạo và độc ác của nó, xác suất của
VCP nhận yêu cầu này là hầu như không có. Tuy
nhiên, phong trào "Chúng tôi muốn biết" có vẻ là một ngụy trang khéo
léo, vô tình hay cố ý, cho một phong trào mạnh hơn hoặc một chiến thuật để đánh
lạc hướng hoặc gây nhầm lẫn cho ĐCSVN. Dù
ý định của mình, có gì các VCP có thể làm cho những người chỉ đơn giản muốn biết
những gì đang xảy ra với đất nước là. Ít
nhất là nó là một thông điệp to và rõ ràng để các VCP rằng người Việt không còn
động vật ăn cỏ sợ hãi của những con linh cẩu ác.
Các phong trào
"Chúng tôi muốn biết" mặc nhiên có một phong trào chị em bổ sung chạy
song song: các "Chúng tôi không hề muốn biết" hay phong trào "We
Do not Care biết". Phong
trào chị em này là hướng về gian lận lịch sử mà che đậy tội ác trong quá khứ bởi
các VCP hoặc bóp méo sự thật để tôn tạo các hình ảnh của cộng sản.
Cả hai động gửi tin nhắn
âm thanh to và rõ ràng cho ĐCSVN.
Trong thực tế, người
dân Việt đã hét to và rõ ràng thông điệp "Chúng tôi không hề muốn biết"
hay "We Do not Care biết" tại các gian lận lịch sử của bộ phim
"Sống Cùng Lịch Sử" và triển lãm cải cách ruộng đất .
Tiếp theo, sẽ có những
tiếng la hét to và rõ ràng từ dân số trẻ Việt.
Những người trẻ tuổi ở
Việt Nam, đặc biệt là sinh viên đại học, đã thường bị chỉ trích là không quan
tâm đến tình hình hiện nay ở Việt Nam và vì có mối quan tâm chút về tương lai của
đất nước. Lời chỉ trích này là tiếp
tục làm sâu sắc thêm bởi các cuộc biểu tình sinh viên lãnh đạo ủng hộ dân chủ ở
Hồng Kông, được mệnh danh là chiến dịch Chiếm Trung ương hoặc Revolution
Umbrella. Trong khi những lời chỉ
trích này cũng có phần đúng ở chỗ nó phản ánh sự thờ ơ rõ ràng hoặc không hành
động của những người trẻ tuổi trong cuộc biểu tình chống lại sự xâm lăng của
Trung Quốc ở Biển Đông và các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ khác, nó có thể là
không công bằng. Là nạn nhân, những
người trẻ tuổi ở Việt Nam đầu tiên cần phải phá vỡ các chuỗi và xiềng xích mà
khóa lên tâm trí của họ và tự giải phóng mình khỏi nhà tù tinh thần của những
người cộng sản. Quá trình này cần
có thời gian.Nó có thể được nhanh chóng, trong một vài tuần hay vài tháng, hoặc
chậm, trong một vài năm. Nhưng nó
có thể được thực hiện. Thật vậy,
nhiều người trẻ đã cho thấy rằng họ đã trốn thoát khỏi nhà tù cộng sản tinh thần
và bây giờ đang đấu tranh cho dân chủ.
Một khi họ được tự do,
họ sẽ đánh giá cao ý nghĩa của lòng yêu nước. Hai
Bà Trưng, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ sẽ
không còn là chỉ có tên trong sách lịch sử hay nhân vật trong các vở kịch hay
phim ảnh. Các Diên Hồng Quốc hội,
các trận Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa sẽ không còn là sự kiện chỉ đơn thuần là
nhàm chán của một quá khứ xa xôi. Họ
sẽ đột nhiên nhận ra lịch sử Việt Nam là một phần của cuộc sống của họ, những
gì làm cho họ bây giờ họ là ai, và những người con của họ sẽ được.
Sau đó, không được
nói, họ sẽ đứng lên và hành động.
Vâng, sẽ có những tiếng
la hét to và rõ ràng từ dân số trẻ Việt. Tiếng
la hét của họ sẽ giống như gầm hùng vĩ của những con sư tử trẻ và lionesses người
trở lại để lấy lại đất đai của họ từ những con linh cẩu ác.
Và họ sẽ không chỉ hét
lên tin nhắn. Họ sẽ đi cùng các
thông điệp của họ bằng những hành động cụ thể.
____________________________________
THAM KHẢO
Ang, Cheng Guan. 1997. Quan hệ Cộng Sản Việt 'với Trung
Quốc và Đông Dương Conflict Thứ hai, 1956-1962. McFarland & Company, North
Carolina, USA
Bartholomew-Feis,
Dixee. 2006. OSS và Hồ Chí Minh:
Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến tranh chống Nhật. Đại học Kansas, Kansas, USA
Bernal, Martin. 1981. Nghệ-Tĩnh Phong trào Xô
1930-1931. Quá khứ và hiện tại, số
92 (1), 148-168.
BGDĐT (Bộ Giáo dục Đào
tạo and). 2011. Ngữ Văn 7 tập 1
(Ngôn ngữ, lớp 7, vol. 1). Nguyễn
Khắc Phi (trưởng Ed.). Phiên bản
thứ tám, Giáo Dục Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam.
Brocheux, Pierre. 2007.
Hồ Chí Minh: A Biography. Dịch bởi Claire
Duiker, Cambridge University Press, New York, USA
Buttinger, Joseph. 1967. Việt Nam: một con rồng khổng lồ
này. Tập I - Từ thực dân đến Việt
Minh. Frederick A. Praeger, New
York, USA
Bùi Tín. 2006. Bùi Tín tâm tình with the tuổi
trẻ Việt Nam (Bùi Tín trong nói chuyện tim-to-trái tim với giới trẻ Việt Nam). Tiếng Việt Nhà xuất bản Consortium,
Virginia, USA
Cao-Đắc, Tuấn. 2014a. Cháy Trong the Rain. Hellgate Press, Oregon, USA
Cao-Đắc, Tuấn. 2014b. "Không White Flag."
2014/05/07.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/05/no-white-flag.html (truy cập 2014/09/20).
Cao-Đắc, Tuấn. 2014c. Kỹ năng diễn xuất của Hồ Chí Minh
trong con mắt của các học giả phương Tây. 2014/08/21. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/08/ho-chi-minhs-acting-skill-in-eyes-of.html (truy cập 2014/09/30).
Chính Phủ CHXHCNVN. Ngày không xác định. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn
thắng, hiệp định Giơnevơ been ký kết.
http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=698&articleId=10001574 (accessed 2014/09/20).
Chinhphu. 2010. Trao tặng bản Nghị quyết UNESCO
tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Posted
02 Tháng 10 năm 2010.
http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Trao-tang-ban-Nghi-quyet-UNESCO-ton-vinh-Chu-tich-Ho-Chi-Minh/201010/37063.vgp (accessed 2014/09/25).
Chinhphu. 2014. Cách mạng tháng Tám: Bài học lịch
sử, giá trị tương lai.2014/09/01.
http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Cach-mang-thang-Tam-Bai-hoc-lich-su-gia-tri-tuong-lai/207489.vgp (accessed 2014/09/24).
Currey, Cecil B. 1999.
Victory ở bất kỳ chi phí. Potomac
Sách, Inc, Washington, DC, USA
Dân Làm Báo. 2014a. Cuộc triển lãm those oan hồn. 2014/09/11.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/cuoc-trien-lam-nhung-oan-hon.html(truy cập
2014/09/19).
Dân Làm Báo. 2014b. Thư của Mạng các blogger Việt Nam về
phong trào "Chúng tôi muốn biết". 2014/09/17.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/letter-from-vietnamese-bloggers-network.html (truy cập 2014/09/27).
Dommen, Arthur J.
2002. Kinh nghiệm của Đông Dương của Pháp và Mỹ: Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa
cộng sản ở Campuchia, Lào và Việt Nam. Indiana
University Press, Indiana, USA
Duiker, William J.
1973. Red Xô Viết Nghệ Tĩnh-: Một cuộc nổi dậy cộng sản sớm ở Việt Nam. J. Nghiên cứu Đông Nam Á, Vol. 4, số 2 (tháng 9 1973), 186-198.
_____. 1996. The Road Cộng sản để điện tại Việt
Nam. Westview Press, Colorado,
USA
_____. 2000. Hồ Chí Minh - Một cuộc đời,
Hyperion, New York, USA
Đặng Chí Hùng. 2013. Những sự thật have known (phần
19) - Sự thật về Võ Nguyên Giáp. Nguyên
văn 2013/09/05, đăng lại 2014/09/24.
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/09/nhung-su-that-can-phai-biet-phan-19-su.html (truy cập 2014/09/24).
ĐCSVN (Đảng cộng sản
Việt Nam). 1976. Những Sự Kiện Lịch
Sử Đảng, Tập I (1920-1945) (Tài khoản / Thông tin về Lịch sử Đảng - Tập I
(1920-1945)). Ban nghiên cứu lịch
sử Đảng trung ương (Ủy ban nghiên cứu về lịch sử của Trung ương Đảng). Sự Thật, Hà Nội, Việt Nam.
ĐCSVN. 2012. Kỷ niệm 82 năm Xô Viết Nghệ
Tĩnh, khánh thành khu di tích lịch sử Xô Viết ngã ba Nghèn (Kỷ niệm anniversay
82 của Liên Xô Nghệ Tĩnh, ra mắt các di tích lịch sử Xô Viết trong những đường
ngã ba Nghèn). Posted 12 Tháng
Chín 2012.
http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30106&cn_id=542908 (truy cập ngày 21 tháng 9 2014 / truy cập 21-9-2014).
Đinh Quang Anh Thái. 2012. Dương Thu Hương: "30 tháng
Tư 75, nền văn Minh have thua chế độ man ro." 2012/04/17.
http://www.viet-studies.info/DuongThuHuong_DQAT_2.htm (truy cập 2014/09/27)
Fall, Bernard B. 2002.
Hell trong một nơi rất nhỏ: Cuộc bao vây Điện Biên Phủ, Da Capo Press, USA
Harrison, James P.
1989. The Endless War: Cuộc đấu tranh của Việt Nam giành độc lập. Columbia University Press, New York,
USA
Herrington, Stuart A.
1982. Stalking Việt Cộng - Bên trong Operation Phoenix: Một tài khoản cá nhân. Presidio Press, New York, USA
Huyền, N. Khắc. 1971. Vision được hoàn thành? The Enigma của Hồ Chí Minh.Công ty
Macmillan, New York, USA
Jamieson, Neil L.
1995. Hiểu Việt Nam. University
of California Press, California, USA
Joes, Anthony James. 2001. Cuộc chiến cho Nam Việt Nam,
1954-1975. Praeger Publishers,
Connecticut, USA
JUSPAO. 1966. Quynh Luu Bắc Việt Nam khởi
nghĩa, ngày 13 tháng 11, 1956. Added 16 tháng năm 2002.
http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/items.php?item=0720124004 (truy cập 29-9-2014).
Lacouture, Jean. 1968. Hồ Chí Minh: A Biography chính
trị. Dịch từ tiếng Pháp bởi Peter
Wiles. Dịch edited by Jane Clark
Seitz. Random House, New York,
USA
Lê Tâm. Năm 2013. Lần đầu tiên khai mở bí mật
về Mậu Thân 1968. 2013/01/23.
http://danviet.vn/hau-truong-giai-tri/lan-dau-tien-khai-mo-bi-mat-ve-mau-than-1968-87845.html (accessed 2014/09/18).
Lê Văn Hối. 2004. Dép bạo loạn out Quỳnh Lưu. Trích QĐND 25-10-2004.
http://nhandanvietnam.org/view.php?storyid=300 (truy cập 29-9-2014).
Logevall, Fredrik. 2012. Embers of War. Random House, New York, USA
Marr, David G. 1997.
Việt Nam 1945: The Quest for Power. In
bìa mềm đầu tiên.University of California Press, California, USA
McLane, Charles B.
1966. Chiến lược của Liên Xô ở Đông Nam Á - một khám phá của chính sách Đông dưới
Lenin và Stalin. Princeton
University Press, New Jersey, USA
Moyar, Mark. 2006. Triumph Forsaken - Chiến tranh
Việt Nam, 1954-1965.Cambridge University Press, New York, USA
Nguyên Anh. 2013. Anh hùng Nguyễn Văn Bé!? 2013/11/14.
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/11/anh-hung-nguyen-van-be.html (truy cập 2014/09/23).
Nguyễn Minh Cần. 2001. Đảng Cộng Sản Việt Nam qua those
Biến Động Phong Trào in Cộng Sản Quốc Tế (Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá náo
loạn của Phong trào Quốc tế cộng sản). Tuổi
Xanh. Địa điểm không rõ.
Nixon, Richard. 1985. No More của Việt Nam. Avon Books, New York, USA
Nutt, Anita Lauve. 1970. Trên Câu hỏi của hành động trả
đũa Cộng sản ở Việt Nam.
http://www.rand.org/content/dam/rand/pubs/papers/2008/P4416.pdf (truy cập 29-9-2014).
Phan Huy Lê. 2009. Trả lại sự thật hình tượng Lê
Văn Tám. Bài đăng Tạp chí Xưa on
the & Nay số ra tháng 10 năm 2009.
http://daotao.vtv.vn/gs-phan-huy-le-tra-lai-su-that-hinh-tuong-le-van-tam/ (truy cập 2014/09/23).
QĐND. 2010b. Nhớ "Tuần lễ vàng", think về
"lòng dân" (Hãy nhớ "Tuần lễ vàng", suy nghĩ về "trái
tim của người dân"). Posted
28 Tháng tám 2010.
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/271/271/271/122209/Default.aspx (truy cập 2014/09/27)
Southerland, Daniel. 1971. Christian Science Monitor vấn đề
ngày 08 tháng 6, 1971. Cũng có sẵn như là văn bản dịch "Vẽ and clean anh
hung," dịch bởi Trần Quốc Việt. 2012/12/02. http://danlambaovn.blogspot.com/2012/12/ve-va-xoa-anh-hung.html (truy cập 2014/09/23).
Trương Như Tảng. 1986. Một Vietcong Memoir. Với David Chanoff và Đoàn Văn Toại. Sách
Vintage, New York, USA
Trương Tấn Sang. 2014.
Diễn văn of Chủ tịch nước nhân Chiến thắng Điện Biên Phủ. 2014/05/07.
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140507/dien-van-cua-chu-tich-nuoc-nhan-chien-thang-dien-bien-phu.aspx (accessed 2014/09/25).
Tuổi Trẻ. 2014a. Triển lãm Cải cách ruộng đất: Cần sòng
phẳng for lịch sử.2014/09/09.
http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Kinh-te/Du-Lich/Van-hoa/1059683173,Trien-lam-Cai-cach-ruong-dat-Can-song-phang-voi-lich-su.ttm (accessed 2014/09/21).
_____. 2014b. Đầu tư tiền tỉ, phim "chết"
khi ra rạp. 2014/09/19.
http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20140919/dau-tu-tien-ti-phim-chet-khi-ra-rap/647782.html (accessed 2014/09/20).
UNESCO. 1987.
Hồ sơ của Đại hội đồng, Hai mươi tư Session, Paris, Tập I - Nghị quyết trên. Năm 1987.http://unesdoc.unesco.org/images/0007/000769/076995E.pdf (truy cập 2014/09/25).
Vennema, Alje. 1976. Việt Cộng thảm sát tại Huế,
Vantage Press, New York, USA, 1976.
Vũ Ngự Chiêu. 1986. Phía bên kia của cuộc Cách mạng
1945Vietnamese: The Empire của Việt Nam (tháng ba-tháng tám năm 1945). Tạp chí Nghiên cứu châu Á XLV, số 2
(tháng 2 năm 1986), 293-328.
Zhai, Qiang. 2000. Trung Quốc và các cuộc chiến
tranh Việt Nam, 1950 - 1975 Trường Đại học North Carolina Press, Bắc Carolina,
Hoa Kỳ
Willbanks, James H.
2009. Việt Nam War Almanac. Thông
tin về File, Inc., New York, USA
© 2014 Tuấn Cao-Đắc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét