Trong lịch sử Việt Nam cận
đại đã từng có bản luận cương chính trị đưa Việt Nam vào vòng xoáy bạo lực tàn
bạo, vào bóng tối cộng sản triền miên suốt gần một thế kỉ và khởi đầu là cuộc bạo
loạn Xô Viết Nghệ Tĩnh tàn khốc tháng chín năm 1930. Đó là bản luận cương chính
trị “Cách mạng Tư sản Dân quyền” của Tổng bí thư đảng Cộng sản Đông Dương Trần
Phú.
Với luận cương Cách mạng
Tư sản Dân quyền được triển khai thực hiện bằng cuộc bạo loạn dựng lên chính
quyền Xô Viết ở vài huyện thuộc hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh mà việc làm đầu tiên
của chính quyền Xô Viết là quyết liệt phát động cuộc trả thù giai cấp đẫm máu:
Trí – Phú – Địa – Hào đào tận gốc, trốc tận rễ. Những cương lĩnh, những nghị
quyết mang hồn luận cương cách mạng tư sản dân quyền nối tiếp đến tận ngày nay,
kiên trì chủ nghĩa Mác Lê nin, kiên trì sử dụng bạo lực chuyên chính vô sản để
khống chế, cai trị dân tộc, dân tộc Việt Nam hiền hòa đã bị đẩy vào những cuộc
đấu tố, chém giết, hành hình, thủ tiêu, truy bức triền miên.
Từ những cuộc đấu tố,
truy bức, giết hại tầng lớp trên trong xã hội, giết hại những người giàu có của
cải, giàu có trí tuệ trong Xô Viết Nghệ Tĩnh, trong Cải cách ruộng đất, trong
Nhân Văn Giai phẩm và trong Xét lại chống đảng đến những điều luật vi hiến 79;
88; 258 trong bộ luật tố tụng hình sự, kết tội, bỏ tù những tiếng nói trung thực,
đất nước Việt Nam đã bị nhấn chìm trong bóng tối bạo lực chuyên chính vô sản suốt
gần một thế kỉ. Người dân bị tước đoạt những quyền con người, quyền công dân cơ
bản. Cuộc sống điêu linh trong chồng chất oan khiên. Đất nước trì trệ, lạc nhịp
với thời đại văn minh và tụt lại sau ngày càng xa trong tiến trình đi tới của
loài người.
Nhưng với qui luật vận động
không ngừng, trong xã hội cũng như trong tự nhiên không có gì là vĩnh viễn, bất
biến. Có đêm thì phải có ngày. Có luận cương chính trị đưa dân tộc Việt Nam vào
đêm tối bạo lực thì sẽ có luận cương khai sáng đưa dân tộc Việt Nam từ đêm dài
cộng sản ra ánh sáng văn minh. Luân cương đó chính là đề án chính trị Khai Sáng
Kỷ Nguyên Thứ Hai của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.
Luận Cương Khai Sáng,
rút gọn từ Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, là một đề án chính trị sắc sảo, thấu
đáo. Đó thực sự là cương lĩnh của một đảng chính trị cứu nước, là đề cương
tranh cử người đứng đầu nhà nước của đất nước Việt Nam dân chủ.
Với số dân đứng hàng 14
thế giới, với một dân tộc thông minh, cần mẫn hàng đầu thế giới, với địa lí tư
nhiên và địa chính trị của một nước lớn, giàu mạnh nhưng Việt Nam hiện nay vẫn
là nước nghèo hèn, lạc hậu nhất thế giới và lịch sử Việt Nam đến nay chỉ là lịch
sử nô lệ. Độc lập chỉ là thay nô lệ bên ngoài bằng nô lệ bên trong. Và nô lệ
bên trong tàn bạo nhất, khắc nghiệt nhất, tệ hại nhất nhưng cũng tinh vi nhất
chính là nô lệ ý thức hệ cộng sản. Đó là thực trạng của xã hội Việt Nam. Luận
cương Khai Sáng là cương lĩnh dẫn dắt người dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh
giành lại quyền làm chủ đất nước, đưa dân tộc Việt Nam từ bóng đêm nô lệ ra ánh
sáng tự do.
Luận cương Khai Sáng chỉ
ra hai trở ngại lớn nhất đi tới dân chủ, giành lại quyền làm chủ đất nước cho
người dân là:
Một. Để duy trì độc tài,
nhà nước cộng sản dám làm tất cả, dám thực hiện cả những tội ác lớn nhất: Tàn
phá đất nước. Vất bỏ lợi ích dân tộc. Nô lệ nước ngoài. O bế, dung túng cho đám
quan chức tham nhũng để buộc chặt họ với nhà nước độc tài tham nhũng, đồng nhất
họ với thể chế độc tài tham nhũng. Đàn áp dã man, tàn bạo những tiếng nói đòi tự
do, dân chủ, những hoạt động chống nô lệ, Bắc thuộc.
Hai. Người dân đau đớn
nhìn tấm gương những người đấu tranh cho dân chủ bị nhà nước cộng sản độc tài
đàn áp tàn bạo, cả gia đình họ bị trả thù hèn hạ, bị tước nguồn sống, tước quyền
mưu sinh, dù yêu nước, thương nòi, số đông người dân cũng đành buông xuôi, thờ
ơ với vận nước, buông xuôi với vận mệnh của chính họ, vận mệnh của cả gia đình
họ.
Chỉ ra hai trở ngại lớn
đó, trở ngại từ nhà nước độc tài và trở ngại từ chính người dân an phận, buông
xuôi, luận cương Khai Sáng còn chỉ ra những làn sóng dân chủ dồn dập xô tới, từ
làn sóng dân chủ đầu tiên là cách mạng Hoa Kỳ năm 1776 và cách mạng Pháp năm
1789 đến làn sóng dân chủ thứ tư diễn ra đầu thế kỉ 21 ở các nước độc tài, kinh
tế đang khốn cùng phải mở cửa làm ăn đón kĩ thuật và đồng vốn tư bản từ các nước
phát triển cũng là các nước dân chủ. Dân chủ phát huy tài năng, trí sáng tạo vô
tận của người dân. Kinh tế phát triển luôn đi cùng với dân chủ phát triển. Dân
chủ là một trong những yếu tố không thể thiếu để phát triển kinh tế lành manh
và bền vững. Đón kinh tế tư bản vào đất nước cũng là đón ngọn sóng dân chủ đến
với đất nước. Những làn sóng dân chủ đó đã giải phóng từng mảng nhân loại khỏi
bóng tối độc tài. Đến làn sóng dân chủ thứ tư chỉ còn vài nước độc tài lẻ loi
thì không thể cưỡng lại được Kỉ nguyên dân chủ sáng lạn đang mở ra trước cả
loài người.
Vị thế địa chính trị của
Việt Nam và thời điểm bản lề đang xoay chuyển của một thế giới mới cũng thúc đẩy
Việt Nam phải đón nhận ngọn sóng dân chủ đang ào ạt xô tới.
Là láng giềng, sông
chung dòng, núi liền dải với đất nước Tàu Cộng mà nhà nước Tàu Cộng từ ngàn đời
xưa đến tận hôm nay chưa bao giờ nguôi tham vọng xâm lược bành trướng “bình
thiên hạ”. Nhất là ngày nay nhà nước Tàu Cộng dưới chính thể cộng sản tham tàn
sau mấy chục năm thí bỏ cả những chuẩn mực đạo đức cơ bản, tối thiểu của con
người, của xã hội, thí bỏ cả môi trường sống của đất nước, cố sống cố chết làm
giàu đã trở thành nước có sức mạnh kinh tế và sức mạnh quân sự ở tốp đầu thế giới
thì cuồng vọng “bình thiên hạ”, thống trị thế giới lại càng điên cuồng.
Định mệnh đặt Việt Nam
liền kề lò lửa chiến tranh Tàu Cộng, liền kề vực thẳm lòng tham Tàu Cộng, lòng
tham lãnh thổ, lòng tham quyền lực thống trị thiên hạ, cai trị cả loài người.
Ngày nay lòng tham đó đang tập trung hướng xuống Đông Nam Á. Việt Nam không những
chốt nhặn ngay cánh cửa mở xuống Đông Nam Á mà Việt Nam còn nêu tấm gương ngàn
năm bất khuất trước bạo lực xâm lăng của Tàu Cộng. Vì thế, muốn khuất phục thế
giới, khởi đầu bằng khuất phục Đông Nam Á, trước hết Tàu Cộng phải khuất phục
Việt Nam. Và Tàu Cộng đang thực hiện khá thành công từng bước khuất phục Việt
Nam, nô dịch Việt Nam bằng ý thức hệ cộng sản và bằng tiền bạc mua chuộc, sai
khiến những người nắm quyền lực trong nhà nước cộng sản Việt Nam.
Ý thức hệ cộng sản là hệ
thống học thuyết dùng bạo lực chuyên chính vô sản nô dịch người dân, một thứ nô
lệ nội tại. Đảng cộng sản Việt Nam mang ý thức hệ nô lệ, chư hầu nước ngoài đó,
mang học thuyết bạo lực đấu tranh giai cấp tội ác từ xứ người về nô dịch chính
người dân Việt Nam, thứ nô lệ độc ác, mất tính người nhất trong các chế độ nô lệ
đã có trong lịch sử loài người. Mọi việc đã có đảng và nhà nước lo, người dân bị
tước quyền làm chủ đất nước, làm chủ chính số phận con người của mình. Người dân.chỉ còn là công cụ
trong tay nhúm người có quyền lực trong đảng cộng sản. Khi nhúm người đó đã bị
ý thức hệ cộng sản cột chặt vào Tàu Cộng và bị quyền lực đồng tiền của Tàu Cộng
sai khiến thì người dân từ nô lệ cộng sản trong nước trở thành nộ lệ cộng sản
nước ngoài, từ nô lệ Việt Cộng trở thành nô lệ Tàu Cộng chỉ còn là vấn đề thời
gian.
Số đông người Việt còn
chưa nhận ra thân phận nô lệ nội tại vô cùng tinh vi, nô lệ Việt Cộng, nhiều
người còn vui sướng, hãnh diện trong thận phận nô lệ đó. Nhưng khi từ nô lệ
trong nước chuyển thành nô lệ nước ngoài, nhất là nô lệ Tàu Cộng, thì người dân
mang dòng máu Việt Nam không ai còn có thể u mê, mơ hồ nữa. Chỉ còn những kẻ
bán linh hồn cho Tàu Cộng để giữ quyền lực mới u mê đến nỗi hốt hoảng lo lắng:
“Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người
già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho
rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”.
Chính sự thức tỉnh của
người dân trước hiểm họa Bắc thuộc sẽ là những ngọn sóng lừng, là bão táp của
biển nhân dân đấu tranh đòi dân chủ, giành quyền làm chủ đất nước.
Vì không thể phó mặc số
phận đất nước, phó mặc sự sống còn của dân tộc cho những người đã đặt lợi ích tội
lỗi của đảng phái, phe nhóm và đặt lợi ích bất lương của cá nhân họ lên trên lợi
ích thiêng liêng của đất nước, của dân tộc.
Vì chỉ có dân chủ mới
huy động được sức mạnh vô tận của nhân dân hôm nay và sức mạnh tinh thần của cả
dân tộc trong quá khứ đã làm nên lịch sử oai hùng Việt Nam, mới gắn kết dân tộc
thành một khối bền vững chống giặc cướp nước, bảo vệ những giá trị Việt Nam như
lịch sử Việt Nam đã nhiều lần chứng minh.
Một thời hệ thống tuyên
truyền cộng sản thường khếch đại sức mạnh thời đại ba dòng thác cách mạng.
Nhưng thời sức mạnh bạo lực của đám đông, của cuồng tín, sức mạnh tàn phá của
những dòng thác cách mạng vô sản thế giới nhấn chìm loài người vào biển máu và
nước mắt đã vĩnh viễn qua rồi. Văn minh đã thắng bạo tàn. Thành trì của bạo lực
cách mạng thế giới đã sụp đổ. Cả hệ thống thế giới tồn tại bằng bạo lực chuyên
chính vô sản đã tan chảy như bọt xà bông là một tất yếu lịch sử đã diễn ra bất
ngờ và mau lẹ. Dân chủ và quyền con người đã trở thành giá trị phổ quát không
thể thiếu của xã hội loài người hôm nay.
Cách mạng Hoa Kỳ 1776 và
cách mạng Pháp 1789 đã đơm hoa kết trái. Dân chủ phát huy sức sáng tạo vô tận của
con người tạo ra nối tiếp những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật kì diệu, đưa
con người bước những bước dài tới cuộc sống giàu sang. Hoa Kỳ và các nước công
nghiệp phát triển đã trở thành thành trì của dân chủ, có tiếng nói đầy sức nặng
trong mọi vấn đề, mọi sự kiện liên quan đến số phận hành tinh, số phận các cộng
đồng dân tộc. Tiếng nói đó đã liên tiếp cất lên hối thúc, đòi hỏi dân chủ, nhân
quyền cho người dân Việt Nam trong chế độ độc tài cộng sản. Nhất là ngày nay
khi Hoa Kỳ đã xoay trục sức mạnh Hoa Kỳ, xoay trục vai trò cáng đáng của Hoa Kỳ
với các vấn đề quốc tế về châu Á – Thái Bình Dương thì dân chủ và nhân quyền
cũng là tiêu chí không thể thiếu mà Hoa kỳ đòi hỏi ở châu Á – Thái Bình Dương.
Đòi hỏi dân chủ, nhân quyền chính là đòi hỏi của thời đại hôm nay, như đòi hỏi
bạo lực của thời cách mạng vô sản, của thời độc tài cộng sản.
Dù nhận định “Dân tộc ta
đang sống một trong những thử thách lớn nhất từ ngày dựng nước nhưng đồng thời
triển vọng tháo bỏ ách độc tài và mở ra kỷ nguyên dân chủ cũng lớn như chưa bao
giờ thấy”, T47. Nhưng Luận cương Khai Sáng còn nhắc nhở “Trong một bối cảnh quốc
tế thuận lợi, thực trạng của chúng ta rất bi đát và tương lai của Việt Nam rất
bấp bênh”, T47.
Những bi đát và bấp
bênh:
. Khi một nước chậm
tiến bước vào kinh tế thị trường, hội nhập với đời sống kinh tế thế giới thì sự
thành công hay thất bại chủ yếu là ở chỗ có tạo ra được hay không một lớp doanh
nhân chân chính. Sự thực không thể chối cãi là mở cửa về kinh tế nhưng vẫn khép
kín về chính trị đã chỉ tạo ra phần lớn những doanh nhân chụp giật, làm giàu nhờ
ăn chia với quyền lực chính trị và kinh doanh bất chính.
. Sự duy trì ngoan cố
chế độ độc tài toàn trị nhân danh một chủ nghĩa đã bị lên án như một tội ác, những
vi phạm trắng trợn về nhân quyền và dân quyền, tệ quan liêu và tham nhũng, sự từ
chối những cải tổ cần thiết, cách cư xử thô thiển trong những quan hệ quốc tế,
sự lệ thuộc ngày càng chặt chẽ và toàn diện vào Tàu Cộng khiến Việt Nam ngày
càng yếu kém và chìm sâu vào thế cô lập bi thảm trong thời đại toàn cầu hóa.
. Nền công nghiệp
non trẻ cần được những tài năng và tâm huyết chăm lo để bứt lên thì lại bị quản
lý quá yếu kém, vô trách nhiệm, bị cạnh tranh bất chính của hàng nhập lậu chủ yếu
từ Tàu Cộng. Thiết bị sản xuất lỗi thời, kể cả những thiết bị mới mua bởi các
quan chức tham nhũng. Các doanh nghiệp nhà nước được coi là chủ đạo của nền
kinh tế và được sử dụng nguồn lực lớn của đất nước lại cũng là những doanh nghiệp
bệnh hoạn, thua lỗ triền miên do lãnh đạo vừa bất tài vừa tham lam được giao chức
theo phe nhóm hoặc chạy chọt, mua bán.
. Tài sản quốc gia bị
các nhóm lợi ích xâu xé. Lợi tức quốc gia quá thấp lại phải oằn vai gánh quá nặng
chi phí bộ máy đảng cồng kềnh và bộ máy công cụ khổng lồ bảo vệ đảng khiến giáo
dục và y tế bị bỏ rơi dài dài. Giáo dục và đào tạo hoàn toàn không có khả năng
chuẩn bị cho tuổi trẻ trong cuộc cạnh tranh với thế giới. Để được hưởng một nền
giáo dục lành mạnh, đúng đắn, tuổi trẻ phải tìm mọi cơ hội ra nước ngoài, tạo
lên dòng người tị nạn giáo dục đông đúc, hối hả như dòng người tị nạn nhân quyền,
bỏ nước đi tìm tự do kéo dài suốt trong lịch sử tồn tại của nhà nước cộng sản.
Tình trạng của đại đa số các bệnh viện Việt Nam là một sự hổ nhục và một tội
ác.
. Tài nguyên quý nhất
của đất nước là con người bị xuống cấp một cách thê thảm. Con người ngày càng rời
xa các giá trị đạo đức căn bản. Gian manh, dối trá, lừa đảo, bạo lực trở thành
chuyện thường ngày trong đời sống xã hội.
. Tham nhũng ngang
nhiên và tràn lan đang hoành hành tàn phá đất nước, tàn phá đạo lí, tàn phá các
mối quan hệ xã hội. Tham nhũng giao những vị trí quan trong cho những kẻ bất
tài, Tham nhũng vơ vét bòn rút kiệt quệ tài nguyên, ngân sách đất nước, khoét
sâu hố ngăn cách giàu nghèo. Đội ngũ quan chức tham nhũng sống đế vương trên sự
nghèo khổ, khốn cùng của số đông người dân lương thiện. Dự án Bôxít Tây Nguyên
và dự án điện hạt nhân đều phi kinh tế và đe dọa sự sống còn của đất nước nhưng
vẫn được áp đặt cũng vì tham nhũng
Thực trạng đen tối đó dẫn
đến hai hiểm họa:
. Môi trường sống,
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội bị tàn phá, ô nhiễm nặng nề. Tài
nguyên bị đào bới, bị rút ruột vô tội vạ. Đất nước bị tàn phá tan hoang. Đời sống
văn hóa, nền tảng đạo đức xã hội bị giết chết trong dối trá và bạo lực.
. Không còn chủ quyền
trên thực tế. Tuyên bố chung Việt – Trung ngày 21-06-2013 cho thấy chính quyền
cộng sản đã ký rất nhiều thỏa hiệp ngầm đặt Việt Nam trong thế khống chế của
Tàu Cộng. Chấp nhận thăm dò chung dầu khí, thực tế là để Tàu Cộng thăm dò dầu
khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cũng là để Tàu Cộng đưa người
vào làm chủ vùng biển cửa ngõ mở ra thế giới của Việt Nam, như đã cho Tàu Cộng
đưa người vào làm chủ mảnh đất hiểm yếu chiến lược Tây Nguyên, làm chủ vùng đất,
vùng biển Vũng Áng, cắt đôi đất nước Việt Nam chỗ eo đất hẹp Hà Tĩnh. Để Tàu Cộng
huấn luyện và đào tạo sĩ quan quân đội và công an Việt Nam. Đến công việc ngoại
giao của nhà nước Việt Nam cũng phụ thuộc vào Tàu Cộng khi Tuyên bố chung Việt
– Trung cam kết tham khảo Tàu Cộng nghĩa phải là nhận chỉ thị của Thiên Triều
trong quan hệ đối ngoại.
Dân tộc Việt Nam đã tới
giới hạn của sự chịu đựng. Đất nước Việt Nam đã tới giới hạn của sự nhẫn nhục.
Hiện trạng đen tối này còn tiếp diễn, dải đất gấm vóc hình chữ S bên bờ tây
Thái Bình Dương sẽ không còn mang tên Việt Nam nữa, dân tộc Việt Nam văn hiến sẽ
bị xóa sổ, bị đồng hóa vào văn hóa Trung Nguyên phương Bắc. Luận cương Khai Sáng
là kế sách giữ nước, giữ tên Việt Nam trên bản đồ thế giới, đưa dân tộc Việt
Nam từ đêm tối độc tài ra ánh sáng tự do, từ kỉ nguyên nô lệ đến kỉ nguyên dân
chủ.
Phải nhìn nhận đúng hiện
thực đất nước mới có kế sách đúng đắn nhưng những báo cáo chính trị của các kì
đại hội đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền đều viết bằng cảm hứng ngợi ca sự lãnh
đạo tài tình sáng suốt của đảng, với ngôn từ khoa trương, đại ngôn, đều vô cảm
với thân phận nô lệ thống khổ của người dân nên đều né tránh hiện thực, không
dám nhìn vào hiện thực đau đớn, tủi nhục của người dân, mất mát lớn lào của đất
nước. Đề án chính trị Luận cương Khai Sáng là sản phẩm của một tư duy khoa học
mẫn cảm, trung thực, của một trí thức thông tuệ đã tiếp cận được đầy đủ hiện thực
đen tối đó. Nhưng cũng chính vì sự thông tuệ của người sống ở thủ đô ánh sáng, ở
một trung tâm phát triển của châu Âu, nơi có mặt bằng dân trí khá cao mà đôi chỗ
đề án chính trị công phu này còn thiếu sự bình dị, dễ hiểu với nhận thức, trình
độ dân trí trong nước.
Luận cương Khai Sáng thực
sự là một đề án hành động. Hành động cần cụ thể. Nhưng luận cương mang tên Khai
Sáng Kỉ Nguyên Thứ Hai chữ nghĩa triết học quá, như một lí thuyết triết học nên
ít thu hút được sự quan tâm của đời sống chính trị đang sôi động trong nước.
Bình dị, thiết thực hơn, chẳng hạn như Đi Tới Kỉ Nguyên Dân Chủ, hoặc Việt Nam
– Con Đường Dân Chủ Hóa có lẽ gần gũi hơn, sẽ được sự đón nhận mặn mà hơn.
Có những nội dung quan
trọng sẽ có nhiều ý kiến khác nhau cần được có đề mục riêng để luận bàn thỏa
đáng như tên gọi nhà nước Việt Nam. Một thực tế phải nhìn nhận là còn rất nhiều
người Việt Nam vẫn luyến tiếc, vẫn muốn níu kéo về hiện tại tên nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa của nhà nước cộng sản Hồ Chí Minh và cũng còn rất nhiều người
Việt Nam muốn có lại tên nước Việt Nam Cộng Hòa thân thương của một thời lịch sử
gắn bó với họ bằng máu, mồ hôi và nước mắt của chính cuộc đời họ. Nhưng trong
chương VI, Thể chế, Hiến pháp Cộng hòa Việt Nam bàn về chế độ chính trị và Hiến
pháp của nhà nước Việt Nam dân chủ, tên nước Cộng hòa Việt Nam được áp đặt,
không một lời lí giải. Tên nước Cộng Hòa Việt Nam xứng đáng có một đề mục riêng
để lí giải, thuyết phục như chế độ chính trị và Hiến pháp Cộng Hòa Việt Nam.
Luận cương có mạch văn sáng sủa, mạch lạc nhưng vì những ý
tứ dồn dập, đôi chỗ luận cương chỉ quan tâm đến tuôn xả những ý tứ căng đầy mà
sa vào văn nói: “Tản quyền có những ưu điểm rõ rệt: nó khuyến khích sinh hoạt
chính trị tại các địa phương, nó đem dân chủ tới mọi nơi với mọi người, nó
tránh được những đường dây hành chính dài và phức tạp cho sinh hoạt thường ngày
với hậu quả là sự tập trung quá đáng dân số vào những thành phố lớn, nó kích
thích sinh hoạt văn hóa và báo chí địa phương, nó cho phép mỗi địa phương chọn
lựa công thức sinh hoạt phù hợp nhất với đặc tính của mình và nhờ đó mà phát
triển”. T. 177. Văn nói chỉ cốt diễn đạt hết ý mà không quan tâm đến câu. Chỉ
có văn viết mới giành mối bận tâm hàng đầu đến tổ chức câu làm sáng rõ ý. Nói
theo mạch. Viết theo câu. Là văn nói nên cả đoạn dài trên là một câu dồn dập
nhiều ý nhỏ. Với văn viết, mỗi ý nhỏ phải là một câu. Ngắt câu, xuống dòng,
thay từ “nó” bằng gạch đầu dòng sẽ chuyển từ văn nói rườm rà, lê thê, các ý nhỏ
dồn dập chồng lấp nhau thành văn viết gọn gàng, khúc chiết, dễ nắm bắt. Văn nói
của không gian. Văn viết của thời gian. Luận cương là tuyên ngôn của một lực lượng
chính trị. Lực lượng chính trị đó nói tiếng nói của Nhân Dân, của thời đại thì
Luận cương đó chính là Tuyên ngôn của Nhân Dân, của lịch sử, còn mãi với thời
gian.
Là cương lĩnh của một đảng chính trị hoặc một đội ngũ trí
thức chính trị thì luận cương Khai Sáng đúng đắn, cần thiết này sẽ mau lẹ đi
vào đời sống chính trị đất nước. Trong nhà nước độc tài cộng sản không thể tồn
tại một đảng chính trị thực sự theo đuổi lí tưởng dân chủ. Trong nhà nước độc
tài đó cũng không thể có một đội ngũ trí thức chính trị mà chỉ có lác đác vài
cá thể trí thức chính trị lẻ loi, lạc lõng, đơn độc. Vì thế sứ mệnh lịch sử đầu
tiên của luận cương Khai Sáng chính là thức tỉnh những trí thức yêu nước và tập
hợp họ lại thành đội ngũ trí thức chính trị và đội ngũ trí thức chính trị đó sẽ
đưa luận cương Khai Sáng vào đời sống chính trị đất nước, đưa đất nước Việt Nam
thân yêu từ bóng đêm nô lệ độc tài ra ánh sáng dân chủ, phát triển.
Phạm Đình Trọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét