Đôi
lời: Trong các vấn đề quốc tế, báo chí quốc doanh ở Việt Nam lâu nay
vẫn còn giữ một “căn bệnh” của truyền thông thời chiến, đó là bệnh thành tích,
bệnh “tự khen” hoặc thổi phồng đánh giá của cộng đồng quốc tế theo hướng khen
mình, ví dụ “thế giới ủng hộ”, “quốc tế đứng về phía Việt Nam”, v.v.
Gần đây, khi tình hình quan hệ
Việt-Trung và tranh chấp trên Biển Đông đã đẩy Đảng và Nhà nước đến mức buộc
phải đề cập đến “Công hàm Phạm Văn Đồng 1958”,
truyền thông nước nhà cũng vẫn tiếp tục tìm cách nhấn mạnh “thế giới ủng hộ Việt Nam”,
“không nước nào công nhận chủ quyền Hoàng Sa của Trung Quốc”… Trong khi đó, cụ thể thế giới đã có những quan điểm gì về vấn đề Hoàng Sa và Công hàm Phạm Văn Đồng, thì không thấy báo chí nào đưa tin rõ ràng, đầy đủ.
truyền thông nước nhà cũng vẫn tiếp tục tìm cách nhấn mạnh “thế giới ủng hộ Việt Nam”,
“không nước nào công nhận chủ quyền Hoàng Sa của Trung Quốc”… Trong khi đó, cụ thể thế giới đã có những quan điểm gì về vấn đề Hoàng Sa và Công hàm Phạm Văn Đồng, thì không thấy báo chí nào đưa tin rõ ràng, đầy đủ.
Vào ngày 15/5, ông Sam
Bateman, một học giả Singapore, đã có bài phân tích cho rằng Công hàm Phạm Văn Đồng làm hại
đến yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa. Bốn ngày sau, CNN đăng một bài
viết về tranh chấp chủ quyền Việt Nam-Trung Quốc, trong đó trích dẫn trực tiếp
ý kiến của ông Sam Bateman.
Điều này cho thấy thực sự quốc tế
không hoàn toàn ủng hộ ta như ta vẫn tưởng, và nhiệm vụ của giới truyền thông
cũng như giới nghiên cứu nước nhà là phải cung cấp đầy đủ thông tin xác thực,
khách quan cho người đọc, đẩy mạnh đấu tranh pháp lý mới mong phần nào hóa giải
Công hàm tai hại này. Lừa mị nhau bằng những thông tin một chiều kiểu “thế giới
ủng hộ” sẽ chẳng mang lại kết cục nào tốt đẹp.
Hong Kong – Khi công ty dầu khí quốc
doanh của Trung Quốc triển khai một giàn khoan dầu đến khu vực tranh chấp trên
Biển Đông (nguyên văn: South China Sea – biển Hoa Nam), sự kiện đó đã châm lửa
vào một xung đột âm ỉ kéo dài giữa Trung Quốc và nước láng giềng cộng sản Việt
Nam.
Theo
các nhà phân tích, Bắc Kinh hẳn phải biết động thái này sẽ gây ra một phản ứng
nào đó, nhưng rõ ràng Bắc Kinh không lường trước được là họ sẽ phải sơ tán hàng
nghìn công dân Trung Quốc đang tuyệt vọng, để giúp dân tránh xa những cuộc biểu
tình bạo lực ở Việt Nam.
“Toàn
bộ câu chuyện dường như đầy những tính toán sai lầm, có lẽ của cả hai phía,
nhưng nó cho thấy khu vực này mong manh và dễ xáo động đến như thế nào” –
Alexander Neill, nghiên cứu viên cao cấp tại Đối thoại Shangri-La và Viện
Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS) phân nhánh châu Á, nhận định.
Mấu
chốt của vấn đề hiện nay là giàn khoan dầu được đặt ở vùng biển mà cả Trung
Quốc và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền. Việt Nam lên án việc triển khai giàn
khoan dầu ở đây là “bất hợp pháp”, trong khi đó Trung Quốc khẳng định họ có đầy
đủ quyền để khoan dầu, và họ chỉ trích chính quyền Việt Nam là đã không đảm bảo
được an toàn cho công dân Trung Quốc.
Để hiểu
vấn đề, chúng ta cần phải xem xét vị trí chính xác của giàn khoan dầu.
Giàn
khoan nằm ở đâu?
Vào đầu
tháng 5, Bắc Kinh thông báo giàn khoan HD-981 sẽ được trên biển để làm công tác
thăm dò dầu khí cho đến giữa tháng 8. Thuộc sở hữu của Tổng Công ty Dầu khí Hải
dương Trung Quốc, giàn khoan đóng tại lô 143, cách đảo Lý Sơn của Việt Nam
khoảng 120 hải lý về phía đông, và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 180
hải lý về phía nam, theo Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
Ảnh
trên CNN: Tọa độ của giàn khoan HD-981 (nguồn: CSIS)
Theo
phân tích của các chuyên gia thuộc CSIS, có lẽ Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng
định các quyền của Trung Quốc ở địa điểm này dựa trên mặc định rằng giàn khoan
nằm chỉ cách quần đảo Paracel – mà Trung Quốc tuyên bố là thuộc chủ quyền của
họ – có 17 hải lý về phía bắc, cho phép họ có quyền xác định thềm lục địa riêng
trong khu vực.
Trung
Quốc gọi quần đảo Paracel đang tranh chấp đó là quần đảo Tây Sa, còn ở Việt
Nam, nơi này được gọi là quần đảo Hoàng Sa.
Việt
Nam thì nói vị trí của giàn khoan nằm chính xác trong thềm lục địa của Việt
Nam, hơn thế nữa, còn là vùng đặc quyền kinh tế của họ. Hà Nội đã yêu cầu Bắc
Kinh rút giàn khoan về, đưa tàu ra khỏi khu vực và cùng đàm phán để giải quyết
vấn đề.
Trung
Quốc dùng tàu hải quân và máy bay chiến đấu hộ tống đưa giàn khoan ra vị trí
hiện tại, kéo theo Việt Nam cũng triển khai tàu đến khu vực, làm căng thẳng leo
thang trên biển. Phía Việt Nam buộc tội tàu Trung Quốc đã đâm va và phun vòi
rồng vào tàu của họ. Phía Trung Quốc nói, tất cả các đụng độ đều do Việt Nam
khiêu khích.
Xung
đột trên đất liền
Cách
rất xa nơi xảy ra đụng độ trên biển, những cuộc biểu tình đầy bạo lực cũng đã
bùng nổ ở nhiều nhà máy do người Trung Quốc và Đài Loan sở hữu hoặc điều hành, chủ yếu ở
hai tỉnh Hà Tĩnh và Bình Dương.
Video
clip: Trung Quốc
đàn áp người bất đồng chính kiến
Video
clip: Bạo loạn
chống Trung Quốc ở Việt Nam
Những
người biểu tình đập phá cổng, đốt công ty, tấn công tất cả những gì có vẻ có
nguồn gốc Trung Quốc, kể cả dân chúng.
Vào hôm
chủ nhật, 18/5, Trung Quốc điều máy bay đến sơ tán 290 công dân, trong đó có
100 người bị thương trong vụ bạo lực mới nhất.
Video
do truyền hình nhà nước CCTV của Trung Quốc công chiếu, cho thấy tại sân bay
Thành Đô, một số người đi khập khiễng hoặc đang được di chuyển từ máy bay y tế
xuống đất, nhiều người chân tay bị băng bó. Cơ quan chức năng cho biết có 2
công dân Trung Quốc đã bị thiệt mạng trong xung đột trước đó.
Tân Hoa
Xã thông báo, khoảng 7000 người Trung Quốc đã lên tàu hoặc chuẩn bị lên tàu
chạy trốn trong tuần (từ 18 đến 25/5). Một bài xã luận đầy giận dữ trên trang
mạng của Tân Hoa Xã tuyên bố, các cuộc biểu tình do “những phần tử bạo động phi
lý trí” sẽ không bao giờ có thể củng cố “yêu sách chủ quyền vô căn cứ của Hà
Nội đối với biển đảo của Trung Quốc trên biển Hoa Nam”.
Ai đúng
ai sai?
Trong
khi có nhiều nhà bình luận cho rằng Việt Nam có đầy đủ quyền để có thể cảm thấy
phẫn nộ về giàn khoan dầu của Trung Quốc, có ít nhất một nhà phân tích khẳng
định vấn đề không hề rạch ròi như một số người tưởng.
“Gần
gũi về địa lý không thôi thì không phải là một cơ sở rõ ràng cho việc ra yêu
sách chủ quyền hay quyền chủ quyền” – Sam Bateman viết trên tờ Eurasia Review.
Bateman,
một nghiên cứu viên cao cấp của Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam trực
thuộc Đại học Công nghệ Nanyang, cho biết yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối
với quần đảo Hoàng Sa bị “suy yếu nghiêm trọng” vì miền Bắc Việt Nam vốn đã
công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, và cũng không phản đối gì
từ năm 1958 đến năm 1975.
Vào năm
1974, hai nước đánh nhau trong trận Hải chiến Hoàng Sa. Trận này kết thúc với
thắng lợi thuộc về Trung Quốc và họ kiểm soát hoàn toàn cả các đảo Hoàng Sa lẫn
vùng biển bao quanh đó.
Sau khi
Việt Nam thống nhất vào năm 1975, các lãnh đạo của nước này đã công khai nhắc
lại chủ quyền của nước mình với quần đảo, nhưng vấn đề chính thì vẫn không giải
quyết được. Vào tháng 1 năm nay, các nhà hoạt động ở Việt Nam đã hô vang khẩu
hiệu chống Trung Quốc và đặt hoa tưởng niệm hơn 70 lính Việt Nam bị thiệt mạng
trong trận giao chiến 40 năm về trước.
Động cơ
của Trung Quốc là gì?
Xét bề
ngoài thì dầu lửa có vẻ là lý do tại sao Trung Quốc đặt chân vào vùng biển
tranh chấp, tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng rõ ràng chính trị mới là cái
chính.
“Với
những động thái kiểu này – đặt một giàn khoan dầu vào một địa điểm như thế –
bạn có thể nói rằng nó tạo cho Trung Quốc toàn quyền hành động để mở rộng hoạt
động của hải quân trong khu vực và thể hiện sức mạnh xa hơn nữa trên Biển Đông”
– Neill nói.
Đây
không phải lần đầu tiên Trung Quốc nhúng vào những việc nhạy cảm trong khu vực,
bằng cách gây ồn ào và cố ý xâm nhập vào những địa điểm đang tranh chấp. Từng
có những vụ đụng độ căng thẳng giữa Nhật Bản và Trung Quốc xoay quanh chủ quyền
của quần đảo Senkaku hay Điếu Ngư trong mấy năm gần đây, và Trung Quốc đã cãi
vã với Philippines về những yêu sách chủ quyền đối kháng tại bãi cạn
Scarborough.
Trong
một tuyên bố ra ngày 7/5, Bộ Ngoại giao Mỹ đánh giá động thái mới nhất của
Trung Quốc là “một phần nhỏ trong lối hành xử của Trung Quốc nhằm xúc tiến các
yêu sách chủ quyền của mình đối với các vùng lãnh thổ đang tranh chấp, theo một
cách phá hoại hòa bình và ổn định trong khu vực”.
Trung
Quốc phản ứng như thế nào?
Sự hung
dữ trong các cuộc biểu tình của người Việt Nam có vẻ đã khiến Trung Quốc rất
ngạc nhiên, và Trung Quốc đã thể hiện rõ ràng sự không hài lòng của họ với cách
Việt Nam xử lý tình hình.
Hôm
18/5, Trung Quốc tuyên bố họ đã ngừng một số chương trình trao đổi song phương
với Việt Nam. Họ cũng cảnh báo công dân của nước mình rằng đến Việt Nam là
không an toàn, đồng thời, tờ Hoàn Cầu thời báo đưa tin, nhiều công ty du lịch
Trung Quốc đã hủy tour đến Việt Nam.
Trung
Quốc còn cảnh báo về các hình thức trừng phạt khác (nhưng chưa nói cụ thể là
hình thức gì), có ý ám chỉ rằng họ sẽ sử dụng đòn kinh tế. Theo báo chí Trung
Quốc, năm 2013, thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam đạt hơn 50 tỷ đô-la, và
Việt Nam phụ thuộc rất chặt chẽ vào đầu tư nước ngoài.
Bình luận
của Tân Hoa Xã: “Chính quyền Viêt Nam nên đến bức tranh toàn cảnh rộng lớn hơn,
đừng để bị sa lầy trong chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhằm tránh làm bạo lực leo
thang và phức tạp hóa tình hình biển Hoa Nam”.
“Nếu
Việt Nam ngừng ngay lập tức bạo lực và tất cả các hình thức khiêu khích khác,
thì sẽ có thể hợp tác với Trung Quốc để khai thác đầy đủ tiềm năng của sự hợp
tác kinh tế giữa hai nước trong các lĩnh vực như dịch vụ tài chính và chuyển
giao công nghệ”.
Việt Nam phản ứng ra sao?
Chính phủ Việt Nam, mặc dù vẫn yêu
cầu Trung Quốc phải đi khỏi khu vực tranh chấp, nhưng cũng cho biết là họ đã
tiến hành các bước ngăn ngừa biểu tình. Họ gọi các cuộc biểu tình là “hành động
tự phát” bởi các cá nhân “lợi dụng tình hình để gây rối trật tự công cộng”.
Hàng trăm người đã bị bắt, và chính
quyền đã hứa với các nhà đầu tư nước ngoài rằng việc bảo đảm an ninh cho giới
đầu tư nước ngoài có một “tầm quan trọng đặc biệt”.
Mọi chuyện có thể kết thúc như thế
nào?
Alexander
Neill thuộc IISS dự đoán, quan hệ giữa hai nước sẽ căng thẳng một thời gian,
nhưng chắc chắn là mối giao thương giữa hai nước sẽ mở ra một lối thoát để đi
lên phía trước.
“Tôi
nghĩ là có một quan niệm sai lầm phổ biến rằng quan hệ đảng-đảng, tức là quan
hệ giữa hai đảng cộng sản ở Trung Quốc và Việt Nam với nhau, có một sự thông
hiểu nhau rất sâu sắc. Tôi không nghĩ điều đó chắc chắn đúng. Tôi cho là mối
quan hệ này chỉ có tính chất trang điểm bề ngoài”.
“Cốt
lõi của mối bang giao là nằm ở thương mại, cho nên thương mại có thể là lĩnh
vực sẽ mở ra lối thoát, hay là lĩnh vực mà tại đó, các kênh truyền thông sẽ lên
tiếng nhiều hơn là chỉ trích nhau về chính trị”.
“Chính
quyền Việt Nam không thể chịu được việc để mất đi lượng lớn vốn đầu tư vào nền
kinh tế của mình”.
Nguồn: CNN
TRUYỀN ĐƠN TỐ CÁO.
Trả lờiXóaTỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NGUYỄN PHÚ TRỌNG NHẬN HỐI LỘ 100 LƯỢNG VÀNG ĐỂ DUNG TÚNG BAO CHE CHO NHỮNG TỘI ÁC CƯỚP CỦA - GIẾT NGƯỜI.
Nay đã có 3279 số lần xem trang.