Xuân
Trung (thực hiện)
(GDVN)
- Căn cứ khoa học lớn nhất cho tình trạng thừa lao động trình độ đại học, cao
đẳng được chuyên gia đưa ra là đào tạo tràn lan, thợ nhiều hơn thầy.
Chuyện
thừa thầy thiếu thợ thì đã được bàn luận rất kỹ từ lâu. Các chuyên gia cũng đã
đưa ra được cách khắc phục, nhưng chưa có nơi nào làm đúng, làm được.
Báo
điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với GS. TSKH Nguyễn Xuân Hãn (Đại
học Quốc gia Hà Nội) về vấn đề trên để làm rõ hơn về nguyên nhân chúng ta mãi
lúng túng trong bài toán này.
Không có xã hội nào cần
thầy nhiều hơn thợ
Vừa
qua, xã hội lại giật mình khi nghe tới con số vài chục nghìn người tốt nghiệp
đại học, cao đẳng thất nghiệp, Giáo sư nghĩ gì về con số này?
GS. TSKH. Nguyễn Xuân Hãn:
Theo con số thông báo chính thức, một năm đã tăng thêm
72.000 người có bằng đại học trở lên thất nghiệp, tính đến nay tổng số là hơn
158.000 người, đây sẽ là hệ lụy gây bất ổn xã hội. Nguyên nhân nằm ở chỗ không
chú trọng bài toán chất lượng có từ ngày xưa. Hiểu đơn giản tức là việc mở rộng
đại học là đúng nhưng không có nghĩa là học đại học tương tự như “bán bằng” cho
họ mà phải dạy/học nghiêm túc để có chất lượng.
Bất kỳ
đường lối chính sách nào của nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn, trong
khi đó giáo dục sính ngoại, lúc đầu “sao chép” chương trình giáo dục của đại
học, sao chép mô hình Đại học Quốc gia và Đại học vùng–từ Thái Lan gộp các trường
đại học thành các đại học lớn- mô hình vừa đội nón vừa che ô, vênh với hệ thống
tổ chức Nhà nước ta.
GS.
TSKH Nguyễn Xuân Hãn cho rằng, chúng ta đào tạo ra chủ yếu chất lượng thấp -
đại học là học đại, tương tự như "bán bằng", trong khi chúng ta đi
sửa điểm sàn để ra các điểm tuyển khác nhau như vậy, thực chất là cốt sao để
các trường tuyển được nhiều hơn thì đương nhiên lượng người thất nghiệp sẽ còn
tăng.
Lưu ý,
nhận thấy sai lầm Thái Lan đã bỏ mô hình ghép thành đại học lớn - chỉ còn ta
vẫn còn duy trì mô hình sai trái này. Việc tăng quy mô tuyển sinh đại học cũng
sao chép của các nước giàu bên ngoài?
Lấy ví
dụ cho dễ hiểu, hiện trên thế giới tồn tại hai tiêu chí, một là lấy độ tuổi từ
18 – 22 tuổi (đây là tiêu chí của những nước giàu – dưới 15% sinh viên trong số
đó được đi học đại học thì gọi là giáo dục đại học tinh hoa, từ 15-50% là đại
chúng, từ 50% trở lên là phổ cập). Lưu ý, chữ “tinh hoa” không phải là chất
lượng đào tạo đại học, còn chữ “đại chúng” không có quan hệ gì với cơ sở lý
luận chủ yếu của nền giáo dục nước ta “khoa học, dân tộc và đại chúng”
(1943).
Và tiêu
chí thứ hai, kinh tế sẽ quyết định quy mô phát triển giáo dục. Với tiêu chí này
chúng ta đào tạo nhiều để làm gì? Vấn đề này trong mấy chục năm qua Bộ
GD&ĐT không xem xét?
Năm
2005 trong một dự án của Bộ GD&ĐT có nói phát triển quy mô đại học đến năm
2020 sẽ có khoảng 900 trường đại học, cao đẳng với tổng kinh phí 20 tỷ USD.
Sinh thời, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã gọi tôi lên tư vấn và làm rõ đề án này,
sau đồng chí đã viết thư góp ý (trả lời về việc này?) tới Bộ GD&ĐT.
Do vậy,
tôi tìm hiểu xem căn cứ vào đâu để đưa ra con số phát triển 900 trường đại học,
cao đẳng? Thì thấy, xuất hiện một lý luận rằng đến năm 2020 dân số Việt Nam sẽ
bằng dân số Nhật Bản lúc đó, Nhật Bản có 900 trường đại học, cao đẳng thì mình
cũng phải bằng họ. Tuy nhiên, nhìn nhận kinh tế Nhật Bản lúc đó thu nhập quốc
dân đã 6.000 tỷ USD, trong khi ta chỉ có 40 tỷ USD (thấp hơn bạn 150
lần).
Tiêu
chí cao nhất để đánh giá trình độ khoa học kỹ thuật của một nước là giải Nobel.
Nhật nhận giải Nobel đầu tiên năm 1949, ngày nay có năm người Nhật nhận 2 giải
Nobel. Bao giờ Việt Nam có Nobel? 50 năm hay 100 năm nữa?
Sau thư
góp ý của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, năm 2007 thấy kế hoạch của Việt Nam sẽ có
khoảng 576 trường đại học, cao đẳng vào năm 2020! Hiện tại số lượng
trường đại học, cao đẳng theo điều tra là 471 trường, bình quân mỗi một
quận, huyện đã có gần một trường đại học, hay cao đẳng.
Mở rộng
quy mô nhưng chúng ta không xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế và thực tiễn
đất nước mình. Đơn giản như sản xuất ô tô, bao nhiêu năm nay chúng ta chỉ lắp
ráp chứ chưa tự nghĩ ra được một thứ gì, trong khi đó nhìn sang Campuchia họ
sản xuất ô tô chỉ có giá 300 triệu VNĐ, phải nhìn thẳng vào sự thật này.
Chúng
ta lấy tiêu chí của nước giàu để áp vào nước ta trong khi thu nhập đầu người
của ta chỉ có hơn 1.000 USD, các nước giàu cỡ khoảng 30.000 – 40.000 USD/năm.
Nếu vận dụng máy móc như vậy vào hoàn cảnh nước ta thì sự hỏng là điều báo
trước.
Trên
thế giới từ xưa đến nay càng lên cao chất lượng càng phải giỏi, trong khi đó
chúng ta để phát triển ồ ạt trong điều kiện không đảm bảo chất lượng. Trên thế
giới ở tầm vĩ mô như Cộng đồng chung Châu Âu cần hàng chục triệu người có trình
độ công nghệ cao để phục vụ cho phát triển xã hội. Ai đáp ứng nhu cầu họ sẽ cấp
Visa, nhưng chỉ lấy được lao động của Trung Quốc và Ấn Độ, còn Việt Nam vì
trình độ thấp, nên chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng khi làm việc với Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
đã từng chỉ đạo chúng ta đào tạo làm sao phải đạt chuẩn quốc tế, để có công ăn
việc làm không những ở trong nước mà còn ở ngoài nước.
Hiện
nay, cơ cấu nguồn nhân lực chúng ta đang có vấn đề. Trong vòng 10 năm đã tụt
xuống gấp 2 lần. Thông thường 1 đại học, 4 trung cấp và 10 công nhân, năm 2006
tỷ lệ của chúng ta tương ứng là 1 đại học, 1,17 trung cấp và 0,9 công nhân, đến
2012 là 1 đại học, 0,43 trung cấp và 0,56 công nhân. Không có xã hội nào cần
thầy nhiều hơn thợ.
Chúng
ta hiện nay đào tạo nhưng không chú trọng vào chất lượng tương ứng, do đó cơ
cấu đang là một thách thức rất lớn.
Thứ
nữa, vấn đề tuyển sinh. Hệ thống giáo dục quốc dân ở ta hầu như không có dạy
nghề, nếu như các nước hết lớp 9 có sự phân luồng rất mạnh, có thể rẽ sang
nhánh đi học nghề theo năng lực, nguyện vọng, sở thích. Ví dụ như Trung Quốc số
này có thể 50-60%.
Ngược
lại chúng ta ngay từ những năm 1987 lại xóa bỏ dạy nghề: Dạy nghề, đại học, phổ
thông như kiềng ba chân. Bỏ dạy nghề hệ thống giáo dục quốc dân chỉ còn cái
kiềng hai chân, chênh vênh, và một hệ thống giống như một hình trụ - đầu vào
phổ thông, đầu ra đại học, không chỉ rất lãng phí mà chắc chắn hỏng từ cơ cấu
nguồn nhân lực.
Thụy Sỹ
là nước giàu có như vậy nhưng số lượng học lên đại học chỉ có 20%, còn lại vào
nhánh nghề và các nước cũng vậy.
Năm 2001
– 2002 số lượng tốt nghiệp phổ thông là 78.000 người (trong đó vào đại học là
16.000 người). Đến năm 2013 số lượng tốt nghiệp phổ thông là 90.000 người (vào
đại học là 614.000 người), nhìn đã biết thừa. Nếu chúng ta đào tạo tốt để xuất
khẩu nhân lực trình độ cao như đất nước Ucraen thì không vấn đề gì? Hàng năm
chúng ta chỉ xuất khẩu được 80.000 công nhân, chưa có đại học mà đã đóng góp
cho nhà nước rất lớn. [ Có thể xuất
khẩu 158.000 cử nhân làm công nhân ? ]
Tư
tưởng chủ đạo ở đây phải xuất phát từ thực tiễn, đào tạo phải theo chuẩn quốc
tế như chỉ đạo của Thủ tướng.
Hai công cụ cho chất lượng
đại học
Vậy,
theo Giáo sư làm thế nào chúng ta có được chất lượng đại học tốt?
GS. TSKH Nguyễn Xuân Hãn: Trong
đại học quan trọng nhất là vẫn là chương trình giáo dục và sách. Xuất phát từ
tư duy “sao chép” và “nhập khẩu” từ bên ngoài nên từ năm 1987 đến nay chúng ta
đã không làm được chương trình giáo dục đại học của riêng mình.
Với
sách, không có bất cứ một ông hiệu trưởng nào nói mỗi môn học có được một giáo
trình chất lượng, trong khi thế giới mỗi môn học trung bình phải có 10 đầu sách
trở lên.
So với
chuẩn mực chung tỷ lệ sinh viên/giảng viên chúng ta còn thiếu khoảng 2 đên 3
vạn giáo viên, đặc biệt các thầy giáo đầu ngành. Thiếu chương trình giáo dục
chính thức của riêng mình, sách thiếu trầm trọng, thầy cũng thiếu trầm trọng,
thì không thể nào đào tạo có chất lượng được.
Gần đây
chúng ta lại có chủ trương sửa điểm sàn để thay bằng các điểm tuyển khác nhau,
tôi cho rằng đây chỉ là “múa gậy trong bị”, phải nhìn tổng thể một bài toán
lớn, vì các trường công lập và ngoài công lập gần đây được mở ồ ạt để đạt mục
tiêu 450 sinh viên/vạn dân vào năm 2020, tưởng là tốt, nhưng thực sự khó khăn,
thiếu sinh viên theo học, sinh viên ra không đáp ứng trình độ lao động cho xã
hội.
GS.
TSKH Nguyễn Xuân Hãn kêu gọi, tất cả người có bằng cấp, có học hàm
học vị đã về hưu mà còn sức khỏe hãy quay lại giảng đường đại học theo đúng
tinh thần “thầy già con hát trẻ” hay “mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột”
như nhiều nước kể cả nước tiên tiến vẫn làm.
Đáng lẽ
chúng ta nên dừng mở tất cả các loại trường đại học, cao đẳng để chuyển sang
hướng các trường nghề thì hiện nay vẫn tiếp tục mở, với đà này đương nhiên
nhiều sinh viên ra trường thất nghiệp, vì xã hội không cần!
Chúng
ta thiếu sách cho sinh viên học, đây có phải nguyên nhân sự thiếu hụt kiến thức
so với chuẩn mực quốc tế?
GS. TSKH Nguyễn Xuân Hãn:
Ảnh hưởng rất lớn, sách được ví như người thầy thứ hai trong nhà trường. Đầu
thế kỷ 21 đã có sự so sánh kiến thức và trình độ - đại học của ta bằng sinh
viên năm thứ 2 đại học quốc tế, thạc sỹ bằng đại học, còn tiến sỹ bằng thạc sỹ,
theo dõi sự so sánh này ít thấy cải thiện!
Có
sự đối nghịch khi nhiều ngành nghề đang cần việc làm, trong khi chúng ta vẫn có
một lượng người tốt nghiệp đại học chưa có việc làm. Giáo sư suy nghĩ gì về
hiện tượng này?
GS. TSKH Nguyễn Xuân Hãn: Theo
số liệu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội gần đây nhất là trên 158.000
người thất nghiệp. Chúng ta đào tạo ra chủ yếu chất lượng thấp - đại học là học
đại, tương tự như "bán bằng", trong khi chúng ta đi sửa điểm sàn để
ra các điểm tuyển khác nhau như vậy, thực chất là cốt sao để các trường tuyển
được nhiều hơn thì đương nhiên lượng người thất nghiệp sẽ còn tăng.
Sau lớp
9 có 50% đi theo học nghề
Theo
Giáo sư, cứ để tình trạng thất nghiệp diễn ra sẽ ảnh hưởng tới mục tiêu trở
thành nước công nghiệp của chúng ta như thế nào?
GS. TSKH Nguyễn Xuân Hãn:
Đến năm 2020, chắc chắn nước ta chưa thể thành nước công nghiệp được. Cho đến
nay qua mười mấy năm chúng ta làm cái ốc vít cho ô tô còn chưa xong, so với đất
nước Campuchia chiếc ô tô họ sản xuất chỉ có giá khoảng 300 triệu VNĐ, còn
chúng ta chủ yếu lắp rắp, gia công bên ngoài. Do đó cách chỉ huy có vấn đề,
không có chiến lược phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách
cụ thể.
Chúng
ta cũng chưa có tiêu chí rõ ràng. Trung Quốc trong 10 năm đặt ra tiêu chí thu
nhập quốc dân phải tăng gấp đôi, ít ra đó còn là tư tưởng chỉ đạo cho tất cả
các ngành trong 10 năm có được sản phẩm tốt cho xã hội.
Giáo
sư có cảnh báo gì về tình trạng thừa lao động đại học, cao đẳng?
GS. TSKH Nguyễn Xuân Hãn: Đào
tạo ra mà không dùng được là một sự lãng phí nhất trong tất cả các lãng phí,
lãng phí từ nguồn lực, từ con người. Không phục vụ được cho xã hội hiện tại,
làm sao mà phục vụ được cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giải
pháp ở đây theo tôi là phải dừng phát triển tất cả các trường đại học, cả công
lập và ngoài công lập. Phát huy nội lực để làm bộ chương trình sách cho
hoàn chỉnh, vấn đề này làm được và không cần dựa vào bên ngoài, chỉ cần dám sử
dụng con người và biết tổ chức.
Hội Vật
lý gần hai thập kỷ từ những năm 90 của thế kỷ 20 đã trăn trở vấn đề này, khác
với chương trình và sách ở bậc phô thông, chỉ cần tổ chức mới theo tư duy
truyền thống mà cố GS. Tạ Quang Bửu đã làm, không tiền vẫn có thể làm được. Các
nghĩ cách làm sẽ sinh ra tiền. Nếu tính mỗi sinh viên chi khoảng 300 ngàn cho
photocopy, với 2,2 triệu sinh viên, mỗi năm đã tốn khoảng 700 tỷ đồng!
Vấn đề
thiếu giáo viên, yêu cầu tất cả người có bằng cấp, có học hàm học vị đã về hưu
mà còn sức khỏe hãy quay lại giảng đường đại học theo đúng tinh thần “thầy già
con hát trẻ” hay “mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột” như nhiều nước kể
cả nước tiên tiến vẫn làm.
Để đảm
bảo cân đối cơ cấu ngành nghề, cần phân loại sau lớp 9 có 50% học sinh chuyển
sang nhánh nghề.
Trân
trọng cảm ơn Giáo sư.
Phiêu Bạt
28/05/14 13:33 3
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét